Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới
Thứ Hai, 15/11/2021, 16:21 [GMT+7]
1. Quan điểm chỉ đạo của đảng và nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
Trong chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ là nội dung quan trọng để không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, là nhiệm vụ chiến lược trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo. Chiến lược cải cách tư pháp đã được tiến hành đồng bộ với đổi mới lập pháp, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ cán bộ liêm chính, chuyên nghiệp và tận tụy. “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”(1). Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh bạch trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Những năm qua, các cơ quan tư pháp đã luôn luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật XHCN, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật, giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân trong quá trình đổi mới. Quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự đóng góp to lớn của toàn bộ hệ thống tư pháp, trong đó phải kể tới sự đóng góp tích cực của đội ngũ cán bộ tư pháp.
Cho đến nay, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết trong đó có nội dung về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, như: Nghị quyết Trung ương 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII); Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII); Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp được thể hiện rõ nhất trong Chiến lược cải cách tư pháp, điển hình là hai Nghị quyết: Nghị quyết số 08/NQ-TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQTW) và được phát triển toàn diện hơn tại Nghị quyết 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết số 49/NQ-TW).
Phiên họp thứ 13 Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương |
Tại Kết luận số 84-KL/TW, ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định một trong những nội dung công tác cải cách tư pháp cần triển khai thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước trong thời gian tới là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên phải thực sự liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp; giải quyết kịp thời đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định, phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”.
Đồng thời, trong Văn kiện cũng xác định một trong những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 là: “Phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”; “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực, sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng...”.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, công tác cải cách tư pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, cán bộ tư pháp được quan tâm; hệ thống các cơ sở đào tạo luật phát triển nhanh về số lượng, đáp ứng yêu cầu về số lượng đào tạo cán bộ pháp luật của các cơ quan tư pháp và xã hội. Công tác tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giáo dục chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm và chế độ chính sách tiền lương đối với cán bộ tư pháp được quan tâm. Quy định rõ hơn cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp; hầu hết các chức danh tư pháp được tuyển chọn, bổ nhiệm thông qua thi tuyển.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những cán bộ sai phạm. Nhìn chung đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp được quan tâm xây dựng, đã có sự trưởng thành về cả số lượng và chất lượng, được đào tạo tương đối cơ bản, tính chuyên nghiệp ngày càng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp.
“Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Xây dựng và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng tiếp tục hoàn thiện tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân,…”. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb CTQGST, H.2021, t.2, tr.149
|
2. Một số nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tinh hình mới
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực trạng công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp vẫn còn những hạn chế, vướng mắc đó là: Chưa có quy hoạch tổng thể các cơ sở đào tạo luật, đầu tư xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra. Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế chưa được cập nhật thường xuyên; đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp còn thiếu, đội ngũ chuyên gia đầu ngành còn ít. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao còn nhiều bất cập nên năng lực của cán bộ tư pháp khi phải xét xử các vụ án, tranh chấp quốc tế chưa đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế; chưa quy định cụ thể nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp, nhất là các luật gia, luật sư giỏi; chế độ tiền lương đối với cán bộ tư pháp còn bất cập, chưa phù hợp với tính đặc thù và trách nhiệm pháp lý trong hoạt động tư pháp. Chất lượng hoạt động luật sư, công chứng, giám định tư pháp có mặt còn hạn chế; ý thức trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động hành nghề , tinh thần tự giác tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức ứng xử nghề nghiệp của một số chức danh bổ trợ tư pháp chưa cao.
Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước thời gian tới đặt ra cho công tác tư pháp những yêu cầu và thách thức mới. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, chưa có tiền lệ cả trong quan hệ dân sự, thương mại, lao động và an ninh, trật tự. Khoa học - công nghệ phát triển đã làm biến đổi thế giới, kéo theo sự biến đổi của các tranh chấp, vi phạm và tội phạm; xuất hiện nhiều loại tranh chấp, vi phạm và tội phạm phi truyền thống.
Vi phạm và tội phạm gia tăng, với tính chất phức tạp hơn, nghiêm trọng và tinh vi hơn, đòi hỏi của người dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp và đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng cao. Tự thân hệ thống tư pháp và thực tiễn cải cách tư pháp thời gian qua cũng còn những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong bối cảnh đó, công tác tư pháp nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng cần phải tiếp tục được đẩy mạnh đổi mới để đáp ứng tốt hơn yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới.
"Xây dựng các thiết chế tư pháp hiện đại, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định. Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý của người dân và doanh nghiệp. Phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp và các thiết chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án. Nâng cao hiệu quả và bảo đảm thời gian giải quyết tranh chấp, thi hành án trong lĩnh vực dân sự, hành chính, đầu tư, kinh doanh, thương mại và bảo vệ người tiêu dùng theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân”. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb CTQGST, H.2021, t.2, tr.150. |
Một số nhiệm vụ, giải pháp về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới là:
(1) Về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
- Tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong các cơ quan tư pháp; thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nghiên cứu hoàn hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng về công tác tư pháp; bảo đảm sự lãnh đạo chặt chẽ đối với các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ; khắc phục tình trạng cấp ủy đảng buông lỏng lãnh đạo hoặc can thiệp không đúng vào hoạt động tư pháp.
- Cần tập trung củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng tiêu chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị, phẩm chất đạo đức đối với các chức danh điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán; quy chế hóa đầy đủ các khâu trong công tác cán bộ, từ việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật… đối với điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và đổi mới cơ chế bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; thực hiện nghiêm quy định của Đảng về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng cán bộ; đổi mới công tác đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, đồng thời nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp.
- Bên cạnh quy định về tiêu chuẩn đối với các chức danh tư pháp được quy định trong các luật chuyên ngành, các chức danh tư pháp cần bảo đảm những tiêu chuẩn sau đây: Về chính trị tư tưởng: Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, của quốc gia, dân tộc và nhân dân; nghiêm túc chấp hành chủ trương của Đảng, thực hiện nghiêm và cương quyết bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên lĩnh vực nhà nước, pháp luật, lĩnh vực PCTN và cải cách tư pháp.
Về năng lực, kinh nghiệm và uy tín: Độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong thực hiện nhiệm vụ; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; có kinh nghiệm làm công tác pháp luật; có uy tín trong cơ quan, đơn vị.
Về đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật: Có lối sống trong sạch, liêm khiết, không tham nhũng; gương mẫu thực hiện đường lối, chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định, quy chế, nội quy của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công tác; là tấm gương về tôn trọng, chấp hành pháp luật trong công việc cũng như trong sinh hoạt; phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết tâm vượt khó; phải đủ sức khỏe theo quy định để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp đại học trở lên đối với chuyên ngành phù hợp với chức danh đảm nhận và tốt nghiệp cử nhân, trình độ đại học nhóm ngành đào tạo pháp luật và được đào tạo về kỹ năng nghề nghiệp tư pháp theo chức danh, đạo đức và nghề nghiệp chuyên môn của cán bộ tư pháp.
- Tiếp tục xây dựng đội ngũ thẩm phán giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh để nhân danh nhà nước ra các phán quyết thượng tôn pháp luật, nghiêm minh và công bằng; tổ chức thực hiện nghiêm “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán”; đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của thẩm phán. Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với chức danh tư pháp trong tòa án. Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên, điều tra viên của ngành kiểm sát nhân dân “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”; thực hiện nghiêm “Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án”. Việc chuẩn hóa đội ngũ điều tra viên trong các cơ quan điều tra của Công an nhân dân theo quy định của pháp luật cần khẩn trương tiến hành bảo đảm về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu, công tác điều tra tội phạm trong tình hình mới; việc luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, sắp xếp cán bộ đối với lực lượng làm công tác điều tra, xử lý tội phạm, nhất là đội ngũ lãnh đạo Cơ quan điều tra Công an các cấp cần lưu ý đến tiêu chí đặc thù, chuyên sâu.
- Tăng cường cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cơ quan tư pháp, chú trọng đề bạt các cán bộ có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất, đạo đức tốt, đã được đào tạo cơ bản và có kinh nghiệm trong thực tiễn công tác đảm nhiệm các chức vụ lành đạo trong cơ quan tư pháp. Xây dựng, thực hiện kế hoạch luân chuyển cán bộ, lãnh đạo quản lý, đồng thời xây dựng chế độ, chính sách phù hợp bảo đảm thực hiện việc luân chuyển. Đồng thời, rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh; xác định lại biên chế cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, tùy từng nơi, từng đơn vị nếu do nhiệm vụ đòi hỏi thì có thể tăng biên chế hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tính tiền phong, gưỡng mẫu của đội ngũ cán bộ tư pháp. Sửa đổi, bổ sung chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ phù hợp cho đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp; khen thưởng xứng đáng đối với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín. Quan tâm bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện cho hoạt động tư pháp.
- Siết chặt kỷ luật, kỷ cương, tăng cường kiểm tra, thanh tra nội bộ và phát huy có hiệu quả cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài đối với hoạt động tư pháp để bảo đảm cán bộ, công chức tư pháp, trước hết là các chức danh tư pháp phải thực sự trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, nắm vững quan điểm, chủ trương của Đảng, am hiểu về kinh tế, xã hội, liêm chính, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
(2) Về xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan tư pháp, nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan tư pháp, nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp, cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Tiếp tục xây dựng Trường Đại học luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật có tính chiến lược và yêu cầu cao về chất lượng đào tạo, chất lượng tuyển sinh và sinh viên tốt nghiệp, đội ngũ giảng cơ hữu, bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học của cả hai trường; chú trọng nhiệm vụ đào tạo bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ cho sinh viên; xây dựng cơ chế quản lý chặt chẽ chất lượng đầu vào và đầu ra để hai trường xứng đáng là các trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp luật của cả nước nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ quan tư pháp.
- Đổi mới chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của Học viện Tòa án, Trường Đại học Kiểm sát, Học viện Cảnh sát của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an; xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo yêu cầu cải cách tư pháp; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa các cơ sở đào tạo cơ bản về luật với Học viện Tòa án và Trường Đại học Kiểm sát nhằm bảo đảm chuẩn đầu ra cho các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp, đào tạo nguồn thẩm phán, kiểm sát viên trước khi tuyển dụng vào các cơ quan tư pháp.
- Tiếp tục xây dựng Học viện Tư pháp thành Trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp, chú trọng đào tạo đội ngũ luật sư, chuyên gia pháp luật có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, chuyên sâu về pháp luật quốc tế để tham mưu trong việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, xây dựng và thực thi chính sách pháp luật đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và công dân Việt Nam trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
- Xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Cần quy định cụ thể mở rộng nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp; thực hiện tốt cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán) theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, dân chủ, công khai và khách quan để lựa chọn người có đủ đức, đủ tài và đảm đương được yêu cầu, nhiệm vụ trong các cơ quan tư pháp; việc lựa chọn bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên không chỉ từ cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn từ các luật gia, luật sư giỏi, có kinh nghiệm và uy tín.
Thực tiễn đã khẳng định: Chiến lược cải cách tư pháp phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới lập pháp, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền và xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, chuyên nghiệp và tận tụy. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp, cải cách tư pháp nói chung, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng nói có ý nghĩa hết sức to lớn, bảo đảm cho cải cách tư pháp thành công, xây dựng nền tư pháp văn minh, tiến bộ, gắn với nhân dân, phục vụ nhân dân.
(1) Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. |
TS. Trần Thị Thu Hằng
(Ban Nội chính Trung ương)
(Ban Nội chính Trung ương)