Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, tiếp tục hoàn thiện quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để phòng, chống tham nhũng
Thứ Năm, 27/05/2021, 06:06 [GMT+7]
1. Đặt vấn đề
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Công tác PCTN, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”, trong đó nhấn mạnh giải pháp tăng công công tác PCTN trong thời gian tới là: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và PCTN, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”(1).
Ngày 28/4/2021, tại Hà Nội, Ban Nội chính Trung ương đã tổ chức “Hội nghị trực tuyến quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về nhiệm vụ công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp”, trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị, đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Ban Nội chính Trung ương để triển khai Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thời gian tới đó là: “Nghiên cứu, tham mưu chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN để “không thể tham nhũng”. Để góp phần triển khai nhiệm vụ nói trên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được phân tích một số nội dung xung quanh vấn đề: Quán triệt Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tiếp tục hoàn thiện các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN.
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương phát biểu tại Hội nghị trực tuyến tiếp xúc cử tri với người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026, thuộc Đơn vị bầu cử số 1, tỉnh Lâm Đồng, ngày 11/5/2021. |
2. Khái quát thực trạng quy định của đảng kiểm soát xung đột lợi ích để phòng, chống tham nhũng từ đầu nhiệm kỳ đại hội đảng khóa Xi đến nay
Sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của Đảng là nguyên tắc nền tảng, bao trùm và xuyên suốt đối với toàn bộ công tác PCTN, cũng chính là nhân tố quyết định mang lại những kết quả quan trọng trong công tác PCTN từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng khóa XI đến nay, như nhận định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc, tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020: “Tham nhũng từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”(2). Một trong những nguyên nhân chủ yếu của kết quả đạt được nêu trên đó là: “Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN cũng được đẩy mạnh, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để bảo đảm “không thể”, “không dám”, “không muốn”, “không cần” tham nhũng(3). Theo số liệu thống kê cho thấy: Từ năm 2013 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và PCTN, trong đó từ đầu nhiệm kỳ XII của Đảng đến nay đã ban hành hơn 140 nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế… để lãnh đạo toàn diện, đồng bộ các mặt công tác xây dựng Đảng và PCTN. Để triển khai thực hiện các chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về PCTN, các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương đã ban hành 45.566 văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN(4). Mặc dù cho đến nay, chưa có một quy định chuyên biệt của Đảng về vấn đề kiểm soát xung đột lợi ích, song qua sự nghiên cứu, phân tích các quy định liên quan cho thấy hiện tượng xung đột lợi ích đã được nhận diện, đánh giá như là một trong những tiềm ẩn, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi tham nhũng; việc lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác kiểm soát xung đột lợi ích đã từng bước được xác lập với một cơ chế tương đối đồng bộ, cụ thể và đạt được nhiều kết quả rõ nét. Thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các quan điểm và chính sách của Đảng về kiểm soát quyền lực, hướng tới việc xây dựng Chính phủ liêm chính trên cơ sở bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, trong đó, vô hình chung đã chỉ rõ các biểu hiện hành vi của các cá nhân hay tổ chức được ủy thác trách nhiệm (được trao quyền), trong tình huống nhất định, có những lợi ích riêng đủ lớn để ảnh hưởng (hoặc có thể ảnh hưởng) đến việc thi hành các trách nhiệm được ủy thác một cách khách quan, đúng đắn. Điều này được đặc biệt thể hiện thông qua hàng loạt quy định của Đảng về công tác cán bộ nói riêng, trong lĩnh vực thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Mặc dù chưa chính thức có sự định danh về việc cấm hay hạn chế các hành vi, ứng xử của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ đã thể hiện đầy đủ các yếu tố nhận diện tình huống xung đột lợi ích(5).
Thứ hai, xung đột lợi ích được nhận định là một trong những biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức, lối sống, sự vi phạm các chuẩn mực trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, viên chức. Xung đột lợi ích không chỉ là tác động tiêu cực đến một hay một số nhóm đối tượng hay một, một số quan hệ xã hội, tác động tới một bộ phận lợi ích cá biệt mà còn tác động sâu rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển bình thường, ổn định của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, an toàn, trật tự xã hội của một ngành, lĩnh vực của một quốc gia.
Thứ ba, xung đột lợi ích tự thân không phải là tham nhũng nhưng chính là tiềm ẩn, là nguy cơ trực tiếp dẫn đến tệ tham nhũng, tiêu cực. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN hiện nay. Đơn cử, theo định nghĩa của Cơ chế trách hiệm giải trình PAM (Public Accountability Mechanisms-2012) và OECD: “Xung đột hay mâu thuẫn lợi ích là tình huống trong đó một cán bộ, công chức, trong thẩm quyền chính thức của mình, đưa ra hoặc phải đưa ra các quyết định hoặc có những hành động, có thể tác động tới lợi ích cá nhân của họ”(6); “xung đột lợi ích không nhất định dẫn đến tham nhũng, nhưng tham nhũng nhất định là do xung đột lợi ích tạo nên”(7); xung đột lợi ích là “cửa ngõ” hay “lối vào” (gateway) của tham nhũng(8). Thứ tư, xung đột lợi ích là tình huống nhạy cảm, tinh vi, phức tạp bởi tính ẩn của hành vi của các chủ thể có liên quan, mà trong đa phần trường hợp chính là cán bộ, công chức, viên chức, thậm chí là người có chức có chức vụ, quyền hạn. Cho nên, việc phát hiện, xử lý là rất khó khăn. Do đó, công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN không phải chỉ là trách nhiệm của nội bộ các cơ quan, tổ chức, đơn vị mà phải là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Trong đó, cần chú trọng bảo đảm việc tham gia rộng rãi của xã hội, của truyền thông, báo chí nhằm tạo ra môi trường công khai, minh bạch góp phần phát hiện, kiềm tỏa, xử lý triệt để, thực chất sự lạm quyền của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ.
Thứ năm, kiểm soát xung đột lợi ích là yêu cầu, là nhiệm vụ cốt lõi để bảo đảm tính thực chất, triệt để trong công tác phòng ngừa tham nhũng, góp phần bảo đảm và tăng cường hiệu quả công tác PCTN nói chung. Công tác kiểm soát xung đột lợi ích phải bảo đảm tính toàn diện, triệt để từ việc nhận diện, phát hiện, kiểm tra, giám sát cho đến xử lý đối với tình huống trực tiếp phát sinh hay có nguy cơ tiềm ẩn phát sinh trong tương lai. Để bảo đảm tính hiệu quả của công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN cần phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể các chủ trương, giải pháp về kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, công tác xây dựng và kiện toàn thể chế và thiết chế PCTN, bảo đảm phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và truyền thống văn hóa của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài.
Có thể khẳng định: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng khóa XI đến nay, công tác xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng về công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN đã có những bước tiến quan trọng. Hệ thống các quy định của Đảng, từ Nghị quyết Đại hội các nhiệm kỳ đến các quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Ban Bí thư cho đến các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan chuyên môn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của các cấp ủy đảng ở địa phương đã từng bước xác lập được các nguyên tắc chung cùng với các chỉ dẫn cụ thể làm cơ sở thống nhất cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong triển khai công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN.
Tuy nhiên, thông qua nghiên cứu, đánh giá thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN cũng đang cho thấy các tồn tại cơ bản là: Một là, cho đến nay các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích vẫn nằm rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, chưa có văn bản quy định một cách trực tiếp, cụ thể các biểu hiện và nguyên tắc, phương thức kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN; Hai là, các quy định của Đảng về sự lãnh đạo, chỉ đạo về công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN cho thấy còn thiếu tính đồng bộ với nguyên tắc, yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước, các quy định về công tác cán bộ, các quy định về kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm kỷ luật Đảng. Việc chưa xác lập được một thể chế toàn diện, thống nhất, đồng bộ và cụ thể về kiểm soát xung đột lợi ích đang được coi là một cản trở trong quá trình hoàn thiện thể chế PCTN cũng như tổ chức thực hiện trong thực tế ở nước ta thời gian qua.
3. Hoàn thiện quy định của đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để phòng, chống tham nhũng ở Việt nam thời gian tới
Để góp phần hoàn thiện quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN trong thời gian tới, cần chú trọng các giải pháp cụ thể sau:
Một là: Rà soát, đánh giá thực trạng các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích. Rà soát các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích là việc xem xét, đối chiếu, đánh giá các văn bản được rà soát với văn bản là căn cứ để rà soát (về cả nội dung và hình thức), nhằm phát hiện, xử lý hoặc kiến nghị xử lý các quy định trái mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp. Thông qua công tác rà soát, đánh giá cũng đồng thời phát hiện những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn công tác đấu tranh PCTN, nhất là những tình huống xung đột lợi ích mới, phức tạp trong các lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm của công tác quản lý nhà nước, để từ đó có các đánh giá tác động, kiến nghị các giải pháp bổ sung kịp thời (đơn cử các biểu hiện xung đột lợi ích nhằm hướng lái chính sách, pháp luật; các tình huống xung đột lợi ích trong công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý;... Mặc dù, những vấn đề nêu trên là không mới, song việc nhận diện tình huống xung đột lợi ích trong các trường hợp liên quan đang cho thấy còn thiếu cụ thể, thống nhất).
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi Đảng đề ra chủ trương lớn về kiểm soát quyền lực để PCTN, cần phải tập trung nghiên cứu, tiếp tục làm sáng rõ nội hàm trong các quan điểm của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích như là một cấu thành về mặt nội dung, đồng thời cũng chính là một trong các phương thức cụ thể để triển khai đồng bộ chủ trương kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung.
Hai là: Xây dựng và hoàn thiện các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN phải là một bộ phận cấu thành thống nhất, đồng bộ trong thể chế của Đảng về công tác PCTN nói chung. Kiểm soát xung đột lợi ích là một trong các nội dung, công cụ góp phần bảo đảm tính toàn diện, triệt để và thực chất nhằm từng bước hình thành cơ chế phòng ngừa để “không thể tham nhũng” trong công tác PCTN. Tuy nhiên, kiểm soát xung đột lợi ích chỉ có thể phát huy tác dụng và hiệu quả thực tế, nhất là bảo đảm tính khả thi khi được xác lập và tổ chức thực hiện trong sự đồng bộ của thể chế. Theo đó, yêu cầu đặt ra là phải quán triệt đường lối, chủ trương chung, các định hướng lớn của Đảng về công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cũng như công tác PCTN trong thời gian tới, trước hết là các nội dung, yêu cầu có tính nguyên tắc đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng, nghiên cứu để đồng bộ hóa và cụ thể hóa các quy định về sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng công tác kiện toàn bộ máy các cơ quan, tổ chức, đơn vị có chức năng PCTN; công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính; công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, phản biện xã hội; công tác thông tin, tuyên truyền;.... nhằm góp phần kiến tạo thể chế phòng ngừa tham nhũng đồng bộ, hiệu quả.
Ba là: Bảo đảm cho các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích phải sớm đi vào cuộc sống, nhanh chóng được thể chế đồng bộ, cụ thể trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước cũng như chương trình, nội dung hành động của các thiết chế trong toàn hệ thống chính trị. Từ quy định của Đảng đến chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ chủ trương đến thực tiễn cuộc sống luôn là một thách thức lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng từ trước đến nay. Để triển khai nghiêm túc và hiệu quả vấn đề này phải bảo đảm xây dựng được một hệ thống các biện pháp tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt, từ khâu quán triệt tinh thần, nội dung các quy định của Đảng cho đến quy định trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó, vai trò trung tâm là hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong các khâu xây dựng pháp luật, lập chính sách, tổ chức và vận hành bộ máy cùng tham gia thực hiện. Đồng thời, cũng chính thông qua việc đưa nghị quyết, chủ trương của Đảng vào cuộc sống còn góp phần kiểm nghiệm, đánh giá hiệu quả chính sách để có các giải pháp điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng ngày 19/4/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến thực trạng này là: “Điều quan trọng lúc này là đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, là tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết có hiệu quả. Làm sao để khắc phục được tình trạng Nghị quyết thì đúng, thì hay nhưng chậm đi vào cuộc sống; thậm chí có trường hợp nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít”(9). Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất chính là công tác thể chế hóa các quy định của Đảng thành các quy định pháp luật để làm cơ sở triển khai thực hiện(10).
Bên cạnh yêu cầu về tính kịp thời thì việc bảo đảm đồng bộ giữa quy định của Đảng với chính sách, pháp luật của Nhà nước là đòi hỏi có tính nguyên tắc. Đơn cử: Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền yêu cầu thành viên cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị: “Tự giác báo cáo với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo quản lý khi có người thân (bố, mẹ, vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột) là người có quyền, lợi ích liên quan đến việc thực hiện quy trình công tác cán bộ; để người khác, nhất là vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để thao túng, can thiệp công tác cán bộ” (Điều 4). Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN thì: Diện người thân được xác định bao gồm: Vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột (Điều 29).Với quy định như trên, thực tế đã chứng minh là có sự bỏ sót diện của nhiều đối tượng là tiềm ẩn phát sinh rủi ro xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức nói riêng, quy định pháp luật hiện hành về diện đối tượng là người thân cho thấy đang hẹp hơn quy định của Đảng có liên quan đến vấn đề này. Cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính đồng bộ với quy định của Đảng với pháp luật của Nhà nước. Bốn là: Tăng cường quyết tâm và trách nhiệm chính trị của các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên trong công tác đấu tranh PCTN, yêu cầu kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN nói riêng.
Quyết tâm và trách nhiệm chính trị của các tổ chức đảng và đảng viên phải được thể hiện ở sự cam kết tuân thủ các quy định của Đảng từ những cấp lãnh đạo cao nhất trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Điều này phải được thể hiện bằng những chiến lược và hành động thực tiễn, được cụ thể hóa và công khai để nhân dân giám sát mà không chỉ dừng lại ở những nghị quyết, những lời nói mang tính chất hô hào, đưa ra khẩu hiệu. Quyết tâm chính trị còn phải bao gồm sự cam kết từ các cấp lãnh đạo của các cơ quan, tổ chức nội chính bao gồm sự gương mẫu của những người đứng đầu, lan tỏa dần xuống những cấp lãnh đạo thấp hơn và tới từng cá nhân cán bộ, công chức, viên chức. Yêu cầu các cấp ủy đảng và thủ trưởng các cơ quan, tổ chức nội chính tăng cường phòng ngừa những biểu hiện, hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên; gắn với công tác PCTN, tiêu cực; triển khai và thực hiện tốt các giải pháp phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp, nội chính.
Năm là: Sớm kiện toàn một số nội dung quan trọng trong các quy định của Đảng về kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN.
Thứ nhất, kiện toàn các quy định của Đảng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức Đảng các cấp trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra Đảng, xử lý kỷ luật Đảng về công tác kiểm soát xung đột lợi ích cũng như xử lý các vi phạm trong kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng việc tăng cường năng lực cho các cơ quan chuyên môn của Đảng như Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và hệ thống cơ quan kiểm tra Đảng các cấp. Kinh nghiệm ở một số quốc gia cho thấy, để tăng cường sức mạnh, tính hiệu quả, mạnh mẽ của công tác PCTN cần phải có sự vào cuộc của các cơ quan thuộc thiết chế chính trị bởi tính quyền lực, khả năng huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị và nhất là tính ít bị chi phối bởi yếu tố lợi ích (luôn là khuyết tật vốn có trong hoạt động quản trị của các cơ quan hành pháp).
Thứ hai, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định của Đảng về cơ chế kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật Đảng đối với các vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát xung đột lợi ích, đặc biệt cần tiếp tục có các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể đối với lĩnh vực có đặc thù nhạy cảm và phức tạp này. Bên cạnh việc yêu cầu tăng cường tính khách quan, vô tư, minh bạch, tính tuân thủ trong hoạt động kiểm tra, giám sát, phản biện, xử lý vi phạm thì cũng cần chú ý bảo đảm tính đồng bộ giữa kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng đối với hoạt động kiểm tra, giám sát, phản biện, xử lý vi phạm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các thiết chế xã hội khác.
Thứ ba, tập trung nghiên cứu để nhận diện một cách đầy đủ, toàn diện hơn các tiềm ẩn, nguy cơ làm tha hóa phẩm chất đạo đức, trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong bối cảnh mới để từng bước thể chế hóa trong các quy định của Đảng. Trong đó, cần tập trung đánh giá, phân tích, làm rõ nội hàm của khái niệm “tiêu cực” để hướng tới sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN bao gồm cả chống tham nhũng và tiêu cực theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN tháng 3/2021 là: “Cơ chế PCTN, tiêu cực, đó chính là chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống. Hai nội dung này liên quan với nhau. Lợi ích kinh tế gắn liền với quyền lợi chính trị, với chức tước, với sự hư hỏng về đạo đức”(11). Theo đó, tiêu cực là ứng xử không lành mạnh, có tác dụng không tốt, trở ngại đến quá trình phát triển của cá nhân và xã hội. Tiêu cực biểu hiện dưới dạng không hành động như là suy nghĩ không tích cực, thụ động; không hành động, không đấu tranh để bảo vệ cái đúng, cái chính nghĩa. Tiêu cực biểu hiện dưới dạng hành động là các xử sự biểu hiện ra bên ngoài đi ngược lại các giá trị tốt đẹp, các chuẩn mực đạo đức chung của cộng đồng, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân. Nếu xung đột lợi ích là lối vào của tham nhũng, được thể hiện dưới dạng hành động cụ thể trong một tình huống nhất định thì tiêu cực chính là nhân tố tiềm ẩn, là động lực thúc đẩy để hiện thực hóa sự “suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống” thành các xử sự trái đạo đức liêm chính và trách nhiệm công vụ. Bởi lẽ đó, đề cao vai trò của công tác kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN không thể tách rời khỏi việc kiên quyết đấu tranh, loại trừ tiêu cực ra khỏi đời sống xã hội.
Thứ tư, thông qua công tác đánh giá, rà soát tổng thể các quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo, các chủ trương, giải pháp về công tác PCTN nói chung, kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN nói riêng trong các văn bản hiện hành của Đảng, từ đó, hướng đến việc hệ thống hóa thành một quy định chung, thống nhất kiểm soát xung đột lợi ích để PCTN của Đảng, tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình tổ chức thực hiện.
(1) Nguồn: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xii/baocao-danh-gia-ket-qua-thuc-hien-nhiem-vu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-5-nam-2011-2015-va-phuong-huong-1599).
(2) Nguồn: http://hdll.vn/vi/tin-tuc/phat-bieu-ket-luan-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nguyen-phu-trong-taihoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-phong-chong-tham-nhung.html
(3) Tài liệu đã dẫn.
(4) Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN.
(5) Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền;...
(6) OECD (2005) “Policy Brief: Managing Conflict of interest in the Public Service.” OECD, Paris, http://oecd.org.
(7) OECD, Managing Conflict of Interest in the Public Sector,p.8
(8) Paul Catchick (2014), ''Conflict of Interest: Gateway to Corruption, ACFE'', https://www.acfe.com/uploadedFiles/ACFE_Website/Content/european/Course_Materials/2014/cpp/2B-Paul-Catchick.pdf
(9) https://www.vietnamplus.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song-to-chuc-thuc-hien-co-hieu-qua/381990.vnp
(10) Đơn cử: Nghị quyết Trung ương 3 (Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006) của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí, trong đó đã đề ra chủ trương về bảo đảm tính liêm chính trong hoạt động của cán bộ, công chức như các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích như quy định về quà tặng, quy định về “Quy tắc quan hệ giữa người thực hiện công vụ với công dân, tổ chức, doanh nghiệp là đối tượng quản lý; giữa người lãnh đạo, quản lý với cán bộ cấp dưới; giữa cán bộ, công chức của cơ quan cấp trên với cán bộ, công chức của cơ quan cấp dưới; nghĩa vụ công chức phải khước từ các ưu ái dành cho bản thân và gia đình”. Tuy nhiên, phải gần đến 15 năm sau, chủ trương này mới được chính thức thể chế hóa thành chế định kiểm soát xung đột lợi ích trong Luật PCTN.
(11) Nguồn: https://giaoducthoidai.vn/thoi-su/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-nghien-cuu-de-xuat-them-chuc-nangphong-chong-tieu-cuc-3hF0b7wGg.html
|
TS. Trương Hồng Hải
(Ban Nội chính Trung ương)