Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của Nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện, tố cáo, người điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có công trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham nhũng. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp sau 13 năm (20052018) đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, trong đó có cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Bài viết phân tích mối liên hệ và sự tác động của cải cách tư pháp đến cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, chủ trương cải cách tư pháp được nêu một cách nhất quán và được tổ chức thực hiện nghiêm túc. Khi chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), Bộ Chính trị đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về pháp luật và tư pháp (Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 0201-2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25-6-2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020) thì công tác cải cách tư pháp được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Đặc biệt, việc ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW đã đánh dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp cải cách tư pháp. Đây là chương trình cải cách ở tầm chiến lược tổng thể, lâu dài; một bộ phận cấu thành quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết số 49NQ/TW đề ra mục tiêu cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Đồng thời, đề ra các nhiệm vụ cải cách tư pháp gồm: (1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; (2) Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; (3) Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; (4) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; (5) Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân đối với cơ quan tư pháp; (6) Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; (7) Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; (8) Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp.
Sau 13 năm triển khai, việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp (2005-2018) đã thu được những kết quả quan trọng, tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội, trong đó có cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN).
Trước hết, cải cách tư pháp đã làm thay đổi nhận thức trong cán bộ, đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng về vai trò của tư pháp và sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, về chủ trương, mục tiêu, quan điểm cải cách tư pháp. Từ đó, tạo chuyển biến quan trọng trong chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức thực hiện pháp luật, trong đó có pháp luật về PCTN thông qua hoạt động của các cơ quan tư pháp trực tiếp đấu tranh với tội phạm tham nhũng trên phương diện pháp luật.
|
Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp thành phố Hải Phòng tổ chức Hội thảo “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự” |
Thứ hai, dấu ấn của cải cách tư pháp thể hiện rất rõ trong việc hoàn thiện cơ sở pháp lý cho đấu tranh PCTN thông qua hoạt động tư pháp. Chính sách pháp luật hình sự đã thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh chống tham nhũng bằng việc quy định nhóm tội phạm về tham nhũng trong luật hình sự. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định 14 tội phạm về chức vụ (Chương XXI), trong đó có 7 tội thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng, 7 tội thuộc nhóm tội phạm chức vụ khác. Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tiếp tục quy định một chương riêng (Chương XXIII) các tội phạm về chức vụ với 7 tội thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng, 7 tội thuộc nhóm tội phạm chức vụ khác, nhưng có một số điểm mới so với Bộ luật hình sự năm 1999. Một là, việc hình sự hóa nhóm tội phạm này, khi Bộ luật hình sự hiện hành mở rộng phạm vi các tội phạm chức vụ sang khu vực ngoài nhà nước, xuất phát từ thực tế là các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đã xuất hiện (thường gọi là tham nhũng xám, khi khu vực ngoài nhà nước cấu kết với công chức nhà nước lập các sân sau để làm ăn bất hợp pháp). Vấn đề đặt ra không phải là ở chỗ tham nhũng trong khu vực công hay khu vực tư nhiều hơn hay nghiêm trọng hơn, mà là ở chỗ bản chất và hiệu ứng xấu của chúng đối với xã hội không khác gì nhau. Trong nhiều trường hợp, khu vực tư trở thành sân sau, là nơi ẩn mình của những cán bộ có chức, quyền trong khu vực công có hành vi tham nhũng. Điều đó đòi hỏi phải có các biện pháp mạnh hơn để xử lý vấn đề này theo nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm pháp lý khi vi phạm. Điều đó phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, trong đó khuyến nghị các quốc gia mở rộng phạm vi chống tham nhũng sang khu vực tư, không chỉ tập trung ở khu vực công. Do đó, Bộ luật hình sự hiện hành đã mở rộng phạm vi chủ thể tội phạm, không chỉ là người có chức vụ khi thực hiện công vụ (cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước) mà còn bao gồm người có chức vụ trong khi thực hiện nhiệm vụ tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước, trước hết đối với 04 tội danh là tham ô tài sản, nhận hối lộ, đưa hối lộ và tội môi giới hối lộ. Hai là, Bộ luật hình sự hiện hành bổ sung việc xử lý hình sự đối với hành vi hối lộ công chức nước ngoài, công chức của các tổ chức quốc tế công. Ba là, mở rộng nội hàm khái niệm "của hối lộ", đó là những lợi ích bất chính, tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, vô hình hoặc hữu hình, vật chất hoặc tinh thần. Bởi, việc đưa hối lộ, nhận hối lộ, môi giới hối lộ trên thực tế không chỉ dừng lại ở tiền, tài sản, hiện vật hoặc các lợi ích vật chất khác trị giá được bằng tiền mà còn sử dụng các lợi ích tinh thần với hình thức biến tướng khác như: Vị trí công tác, việc làm… Bộ luật hình sự năm 1999 chưa quy định các đối tượng “của hối lộ” dưới hình thức biến tướng này nên không thể xử lý được. Do đó, Bộ luật hình sự hiện hành đã bổ sung “lợi ích phi vật chất” vào cấu thành cơ bản của 05 tội: Tội nhận hối lộ (Điều 354), Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 358), Tội đưa hối lộ (Điều 364), Tội môi giới hối lộ (Điều 365), Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 366). Bốn là, Bộ luật hình sự hiện hành sửa đổi cấu thành cơ bản của tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ. Trước đó, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội nhận hối lộ là hành vi của một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Thực tiễn áp dụng cho thấy cách quy định như vậy còn chung chung, chưa rõ ràng, khó xử lý. Vấn đề đặt ra đưa hối lộ cho chính người có chức vụ, quyền hạn hay có thể đưa cho cả người khác mới cấu thành tội này. Trong khi đó, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Điều 15) coi tội nhận hối lộ là lợi ích không chính đáng mà người thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhận được có thể dành cho chính bản thân công chức hoặc cho người khác. Vì vậy, Bộ luật hình sự hiện hành đã quy định lại cấu thành cơ bản của tội nhận hối lộ là: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Tương tự, Điều 364 cũng quy định lại cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ là: Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Quy định như vậy sẽ làm cho việc xử lý hình sự đối với tội nhận hối lộ và đưa hối lộ triệt để hơn.
Như vậy, bên cạnh việc thực hiện chủ trương đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội theo xu hướng phi tội phạm hóa, phi hình sự hóa, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh PCTN, Bộ luật hình sự hiện hành đã quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Cùng với việc pháp luật nội dung quy định tội phạm và hình phạt đối các tội phạm về tham nhũng, pháp luật về tố tụng tư pháp cũng đã có những thay đổi quan trọng, tác động không nhỏ đến việc đấu tranh PCTN trên bình diện hoạt động tư pháp. Với tinh thần cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013, các luật về tổ chức và hoạt động tư pháp tiếp tục quy định, bổ sung và phát triển một số nguyên tắc nền tảng của hoạt động tư pháp, trong đó có những nguyên tắc rất quan trọng bảo dảm cho các cơ quan tư pháp thực hiện có hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng thông qua hoạt động tố tụng như: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền (khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013); Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử (Điều 103 Hiến pháp năm 2013); Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013); Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành (Điều 106 Hiến pháp năm 2013); Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ (khoản 6 Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015); Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa. Cơ quan, tổ chức hữu quan phải thực hiện yêu cầu, kiến nghị của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 6 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015); Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội (Điều 18 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015)...
Trong số các nguyên tắc nêu trên, nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xét xử các vụ án tham nhũng nói riêng, do vị trí trung tâm của Tòa án với vai trò là cơ quan thực hiện quyền tư pháp và là chốt chặn cuối cùng trong xử lý tội phạm tham nhũng thông qua thủ tục tư pháp. Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã được xác lập ngay từ Hiến pháp năm 1946 “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều 69). Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 đặt ra yêu cầu độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không chỉ đối với Thẩm phán mà với cả Hội thẩm. Điều cần nhấn mạnh là, nếu như Hiến pháp năm 1946 đưa ra quy định “không được can thiệp”; còn các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 chỉ nêu nguyên tắc độc lập của Tòa án nhưng không kèm theo việc cấm vi phạm nguyên tắc này, thì Hiến pháp năm 2013 đã xác định một mức độ răn đe mạnh hơn: “Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (khoản 2 Điều 103). Tiếp đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định nghiêm khắc hơn: Việc can thiệp đó ở bất kỳ hình thức nào cũng đều bị nghiêm cấm. Đồng thời, xác định: Cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Điều 9 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014).
Thứ ba, việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng lớn theo tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN trong thời gian qua đã thu được những kết quả quan trọng. Đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, tạo bước đột phá trong công tác PCTN. Ban Chỉ đạo đã đưa một số vụ án, vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 3 cấp độ để tập trung chỉ đạo xử lý nghiêm minh, với nguyên tắc: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Tinh thần “quốc pháp bất vị thân” đã được thể hiện rõ trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Việc xét xử của Tòa án đã tuân thủ nguyên tắc hiến định là độc lập xét xử, kiên quyết bác bỏ quan niệm “quan thì xử theo lễ, dân thì chịu hình pháp”(1), bảo đảm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được thực thi trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Từ đó đã lấy lại niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ(2).
Cần nhấn mạnh rằng, đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh công khai, minh bạch. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng hình sự được ghi nhận như là kết quả của cải cách tư pháp, khi tranh tụng được xác định là khâu đột phá của cải cách tư pháp. Nhìn lại những năm đầu cải cách tư pháp có thể thấy, một số tòa án bắt đầu triển khai thực hiện có kết quả bước đầu tranh tụng tại phiên tòa theo Thông báo số 13-CV/BCĐCCTP ngày 04-11-2002 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp(3) “Một số gợi ý về việc tổ chức phiên tòa hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị”. Đó là một trong những cơ sở thực tiễn rất quan trọng để kiểm chứng cho việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tư pháp. Căn cứ nguyên tắc này, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã xác định mô hình tố tụng Việt Nam theo hướng kết hợp giữa mô hình tố tụng thẩm vấn với mô hình tố tụng tranh tụng đã và đang làm thay đổi cách thức tiến hành tố tụng theo hướng tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng với việc xét xử công khai, tranh tụng tại phiên tòa, làm cho dư luận và nhân dân thấy rõ hơn tác dụng của pháp luật trong đấu tranh chống tham nhũng; đồng thời, làm cho các bị cáo phạm tội tham nhũng thấy rõ lỗi lầm của mình, thấy rõ sự công minh của pháp luật, tâm phục, khẩu phục trước phán quyết của Tòa án. Thông qua đó, răn đe, phòng ngừa ngừa cán bộ, công chức không sa vào con đường phạm tội về tham nhũng.
Thứ tư, để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm tham nhũng, công tác tổ chức và cán bộ trong các cơ quan tư pháp đã được kiện toàn.
Bộ Công an đã thành lập cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm về tham nhũng, đó là Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và tham nhũng (nay là Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu). Cục điều tra hình sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao được củng cố, kiện toàn và mở rộng thẩm quyền so với trước năm 2014. Để bảo dảm không bỏ lọt tội phạm, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã bổ sung nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố cho Viện kiểm sát nhân dân.
Về đội ngũ cán bộ tư pháp, quán triệt tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp đã được thực hiện khi sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng chuẩn hóa đối với cán bộ có chức danh tư pháp. Trên tinh thần đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho cán bộ pháp luật và cán bộ tư pháp được đặc biệt quan tâm. Các cơ sở đào tạo của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã từng bước đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, cán bộ thi hành án hình sự, chấp hành viên thi hành án dân sự, giám định viên tư pháp và một số chức danh tư pháp khác. Kết quả là năng lực đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp được nâng lên, đủ kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh để đấu tranh với một trong những tội phạm khó khăn và phức tạp nhất như các tội phạm về tham nhũng.
Trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, có thể thấy nhiều vụ án về tham nhũng chậm được giải quyết do nghẽn về giám định. Để khắc phục tình trạng này, Luật giám định tư pháp năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để sắp xếp, kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp trong nước, ngoài tổ chức giám định tư pháp công lập đã cho phép thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (thuộc các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, văn hóa…) nhằm khắc phục điểm nghẽn của tố tụng do giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, ngân hàng trong các vụ án tham nhũng. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo triển khai Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp”. Một số bộ, ngành, địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật cho các cơ sở giám định. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các tổ chức giám định tư pháp được hiện đại hóa một bước; chất lượng giám định từng bước được nâng lên, bước đầu giải quyết được những vướng mắc, hạn chế trong tố tụng, đáp ứng cơ bản yêu cầu hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng.
Việc giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tham nhũng được quan tâm. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 bổ sung nhiều quy định như hoạt động giám sát. Quốc hội khóa XIII, XIV đã tiến hành một số lần chất vấn đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Đồng thời, ban hành một số Nghị quyết chuyên đề về công tác tư pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội sau khi được thành lập đã tổ chức nhiều đoàn giám sát, khảo sát chuyên đề, kiến nghị, yêu cầu các cơ quan chấn chỉnh, khắc phục, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật và tăng cường tổ chức các phiên giải trình về những vấn đề bức xúc dư luận quan tâm. Hội đồng nhân dân nhiều tỉnh, thành phố ban hành nghị quyết chuyên đề về hoạt động tư pháp; nghe báo cáo và chất vấn tại các kỳ họp; tổ chức các cuộc giám sát theo chuyên đề hoặc giám sát vụ việc cụ thể. Có thể thấy, kết quả cải cách tư pháp đã góp phần tích cực trong việc tạo điều kiện thúc đẩy cuộc đấu tranh PCTN.
Một số kiến nghị Trên cơ sở phân tích vai trò của cải cách tư pháp trong cuộc đấu tranh PCTN, xin nêu một số kiến nghị sau đây:
1. Thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về đấu tranh PCTN, đặc biệt là thông qua hoạt động tư pháp. Quán triệt nghiêm túc việc thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12- 2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. Với vị trí trung tâm của hệ thống tư pháp, Tòa án cần tiếp tục thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử. Nếu Tòa án không độc lập vì một lý do nào đó trong xét xử các vụ án về tội tham nhũng thì cuộc đấu tranh chống tham nhũng trên phương diện pháp luật và tư pháp sẽ không đạt được kết quả như mong muốn. Là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, về nguyên tắc, mọi hoạt động tư pháp phải trong tầm kiểm soát của Tòa án. Luật tổ chức tòa án nhân dân và các luật về tố tụng tư pháp đã đi theo hướng này. Để nâng cao vị thế của Tòa án cũng như tăng cường vai trò của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Thi hành án trong PCTN, trước hết cần tiếp tục nâng cao năng lực toàn diện của đội ngũ cán bộ tư pháp, từ chuyên môn, nghiệp vụ đến bản lĩnh nghề nghiệp, sẵn sàng đương đầu với những sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đồng thời, chấp hành nghiêm các quy tắc, chuẩn mực đạo đức tư pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh PCTN trong tình hình hiện nay. Vì đối tượng tham nhũng là những người có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khéo ẩn mình trong cơ quan, tổ chức hoặc cấu kết với một số người ngoài khu vực nhà nước để tạo sân sau một cách tinh vi, khó phát hiện. Bên cạnh đó, cũng cần đấu tranh quyết liệt, sớm phát hiện, điều tra và xử lý các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng ngay trong các cơ quan tư pháp.
Mặt khác, cần đề cao vai trò của Tòa án hành chính trong xét xử các hành vi hành chính và quyết định hành chính, vì một mặt đó là thể hiện sự kiểm soát của tư pháp đối với hành pháp; mặt khác, chính là biện pháp phòng ngừa tham nhũng mang tính chuyên biệt và có hiệu quả cao.
2. Việc kê biên tài sản tham nhũng trong quá trình điều tra, truy tố cần thực hiện triệt để hơn, tạo điều kiện cho cơ quan Thi hành án sau này thuận lợi trong việc thu hồi tài sản do tham nhũng mà có. Thực tế cho thấy, nhiều vụ án tham nhũng có số tiền phải thi hành án rất lớn, trong khi tài sản Cơ quan điều tra thu giữ hoặc kê biên trong quá trình điều tra thì không đủ để thi hành án. Khi cơ quan Thi hành án dân sự xác minh, truy tìm tài sản của người phải thi hành án gặp rất nhiều khó khăn do tài sản, số tiền bị chiếm đoạt đã bị tẩu tán, chuyển cho người khác đứng tên với nhiều hình thức khác nhau… Để bảo đảm thu hồi tài sản của người phạm tội đối với những vụ án tham nhũng thì đồng thời với việc khởi tố vụ án, Cơ quan điều tra cần kịp thời phong tỏa, kê biên tài sản của những người có liên quan đến vụ án, không cho mua bán, chuyển nhượng, cho, tặng tài sản… để bảo đảm thi hành án. Sau khi kết thúc điều tra hoặc có bản án của Tòa án, nếu các bị can, bị cáo bị khởi tố và xét xử buộc phải bồi thường thiệt hại hoặc bị thu hồi tài sản tham nhũng thì các tài sản đã phong tỏa, kê biên sẽ được tiến hành xử lý để thu hồi tài sản cho Nhà nước. Có như vậy, sẽ hạn chế tình trạng người phạm tội cố tình tẩu tán tài sản, không thể thu hồi tài sản về cho Nhà nước như thời gian qua.
Bên cạnh đó, theo xu hướng nhân đạo, cần bảo đảm thực hiện quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về việc không thi hành án tử hình đối với người bị kết án và hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân nếu người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật hình sự).
3. Cùng với việc triển khai thực hiện Điều 6 Luật PCTN năm 2018, về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về PCTN, cần tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 38-KH/CCTP ngày 15-8-2014 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương về đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về chủ trương, nhiệm vụ cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp để tăng cường hơn nữa sự thống nhất về nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp góp phần thúc đẩy vai trò của cải cách tư pháp trong PCTN. Cụ thể là, đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông về phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. Công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng kết quả xét xử xử các vụ án tham nhũng, các vi phạm trong công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng và kết quả xử lý những vi phạm đó.
4. Tăng cường hợp tác có hiệu quả với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong việc xử lý tội phạm tham nhũng. Chủ động sớm đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp với các nước chưa ký kết các hiệp định này; từng bước nội luật hóa công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp điều kiện, quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Chính phủ, các cơ quan tư pháp Trung ương cần sớm có văn bản hướng dẫn thi hành Luật PCTN, các quy định của Bộ luật hình sự về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an sớm kiện toàn đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng theo quy định của Điều 83 luật PCTN năm 2018 (có hiệu lực từ 01-7-2019).
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập 12-6-2003.
(2) Trong các năm 2013-2018, trong tổng số 68 vụ án, 57 vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN theo dõi, chỉ đạo, đến tháng 8-2018 đã kết thúc điều tra, truy tố và đưa ra xét xử sơ thẩm 40 vụ án/500 bị cáo, với các mức án nghiêm khắc, đúng quy định của pháp luật, trong đó có nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, kể cả những vụ án tồn đọng kéo dài từ nhiều năm trước đã được chỉ đạo xử lý dứt điểm; Thông báo Phiên họp thứ 14 ngày 16-8-2018 của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Báo Lao động điện tử ngày 16-8-2018. Gần đây nhất đã xét xử các vụ án lớn như vụ đánh bạc trực tuyến sử dụng công nghệ cao trong đó có các bị cáo nguyên là sĩ quan công an cấp tướng là Phan Văn Vĩnh và Nguyễn Thanh Hóa, vụ Phan Anh Vũ, vụ Đinh Ngọc Hệ...
(3) Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp được thành lập ngày 02-01-2002 theo Quyết định số 17-QĐ/TW ngày 0201-2002 của Bộ Chính trị. |
PGS. TS. Nguyễn Tất Viễn
(Nguyên Ủy viên Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương)