Đón xuân Kỷ Hợi mừng Đảng quang vinh

Chủ Nhật, 03/02/2019, 06:23 [GMT+7]
    Hơn 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhân dịp đón Xuân Kỷ Hợi năm 2019,xin điểm lại một số thành tựu của đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh.
    Đảng lãnh đạo xây dựng và  hoàn  thiện  nhà  nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa
 
    Trong tiến trình đổi mới, quan điểm và thể chế xây dựng Nhà  nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa được Đảng bổ sung, hoàn thiện một bước cơ bản, quan trọng. Nhận thức của các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân dân ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân có bước phát triển mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp năm 2013 được ban hành đã khẳng định rõ: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”, đồng thời, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai trò của pháp  luật cùng cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực trong tổ chức hoạt động, trong tổ chức thực hiện và quản lý xã hội của Nhà nước được đề cao và có nhiều tiến bộ.
 
    Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề bức thiết, quan trọng của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng hơn. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội có nhiểu đổi mới về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động, trách nhiệm của các đại biểu Quốc hội được nâng cao. Chính phủ và các bộ đã tập trung vào quản lý, điều hành vĩ mô, năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng của đất nước. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực. Việc đổi mới về tổ chức chính quyền địa phương được tập trung chỉ đạo và tổng kết, rút kinh nghiệm. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển  khai  thực  hiện nghiêm túc, đạt kết quả tốt. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng oan, sai.
 
Đồng chí Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Trưởng Đoàn công tác số 2 phát biểu tại buổi làm việc với Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về sơ kết 05 năm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc,khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm ngày 07-9-2018.
Đồng chí Phan Đình Trạc, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương, Trưởng Đoàn công tác số 2 phát biểu tại buổi làm việc với Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về sơ kết 05 năm thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc,khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm ngày 07-9-2018.
    Đảng lãnh đạo cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thiện thể chế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
 
    Đảng lãnh đạo Nhà nước cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược (thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng), nhất là các lĩnh vực trọng tâm cho thấy, năng suất, hiệu quả và sức canh tranh của nền kinh tế được cải  thiện. Giữa  tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường bảo đảm khá hài hòa. Hiệu quả đầu tư xã hội, đầu tư công từng bước được cải thiện, hạn chế được đầu tư dàn trải. Hệ thống tài chính, tín dụng được cơ cấu lại, không để xảy ra tình trạng mất an toàn. Doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp, đổi mới theo hướng tập trung vào những ngành chính. Cổ phần hóa được đẩy nhanh, thực hiện mô hình quản trị kinh doanh hiện đại, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả hoạt động.
 
    Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đẩy mạnh, đạt một số kết quả. Công nghệ sản xuất công nghiệp  đã thay đổi về trình độ theo hướng hiện đại. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong giá trị sản xuất công nghiệp tăng, tỉ trọng công nghiệp khai thác giảm. Khu vực thương mại, dịch vụ tăng trưởng khá, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch phù hợp. Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn có chuyển biến; nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng khai thác những lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, cơ giới hóa được nâng lên và xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ.
 
    Cơ cấu kinh tế vùng được quan tâm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện. Đội  ngũ doanh nhân đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển, quá trình đô thị hóa nhanh. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu,  nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế.   
 
    Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn.  Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế. Thực hiện cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với một số loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, ngày càng phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng bước phù hợp với kinh tế thị trường, hạn chế và kiểm soát  được độc quyền kinh doanh. Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực thị trường toàn cầu. Đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Tích cực đóng góp xây dựng cộng đồng ASEAN. Hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Đàm phán, ký kết, thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương thế hệ mới.
 
    Những kết quả đạt được nêu trên là do Đảng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp thực hiện các nghị quyết của Đảng phù hợp với tình hình mới; là do Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân đã có nhiều cố gắng thực hiện chủ trương của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
 
Đảng lãnh đạo xây dựng phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
 
    Sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người được Đảng và Nhà nước quan tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội và được thực hiện từ Trung ương đến địa phương. Việc lãnh đạo và thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế có bước chuyển quan trọng, trong đó gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước, gắn xây dựng môi trường văn hóa với xây dựng con người với  các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, về tính chủ động, sáng tạo và khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng cường. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống  của  dân  tộc,  của  từng vùng miền được kế thừa, nhiều di sản văn hóa được bảo tồn, tôn tạo. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Truyền thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng và phương tiện  kỹ  thuật. Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng hơn. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều khởi sắc. Chủ trương của Đảng gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người và tiến bộ, công bằng xã hội đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển.
 
    Các nghị quyết của Đảng về giáo dục, đào tạo được lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện đạt được những kết quả nhất định. Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo tiếp tục được mở rộng. Hệ thống giáo dục, đào tạo các cấp và dạy nghề được tổ chức lại một bước. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện, từng bước hiện đại. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có bước phát triển về số lượng và chất lượng. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, công tác quản lý giáo dục, đào tạo có bước chuyển biến. Chủ trương của Đảng về đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người đã được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm chỉ đạo thực hiện.
 
    Trong những năm qua, khoa học và công nghệ đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Lĩnh vực khoa học tự nhiên, các ngành khoa học cơ bản, khoa học và công nghệ liên ngành tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh. Hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ có chuyển biến, tiềm lực khoa học, công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ hình thành và bước đầu phát huy tác dụng.
 
    Trong những năm qua, Đảng luôn quan tâm chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo và các vấn đề xã hội. Nhận thức của toàn xã hội về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được nâng lên. Hệ thống luật pháp, chính sách được bổ sung nhằm điều tiết các quan hệ xã hội. Ngân sách nhà nước dành cho các  chương  trình  quốc  gia nhằm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội gia tăng. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Thiên niên kỷ. Đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Việc thực hiện chính sách chăm sóc người có công với nước được quan tâm. Thực hiện có hiệu quả các chính sách về người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số, chăm sóc sức khỏe cho người dân, tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục những rủi ro. Đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên.
 
    Đảng lãnh đạo tăng cường quốc phòng, an ninh bảo vệ vững chắc tổ quốc; nâng cao hoạt  động  đối  ngoại, hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
 
    Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng lãnh đạo bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, kiên quyết đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nhận thức về yêu cầu bảo vệ Tổ quốc, về vị trí, vai trò của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển. Đã chủ động, kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển đảo, vùng trời, giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất  nước. Chủ trương, giải pháp trong chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an  toàn xã hội tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân tiếp tục được
tăng cường, nhất là trên các địa bàn chiến lược quan trọng. Sức mạnh mọi mặt của Quân đội và Công an được tăng cường. Kết hợp có hiệu quả giữa nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, hoạt động phá hoại, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, đối phó có hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống, kiềm chế được gia tăng tội phạm. 
 
    Đảng đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đúng đắn, sáng tạo nên hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo được môi trường hòa bình thuận lợi để phát triển. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước ASEAN được củng cố. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều nước. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia các công việc chung, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta. Đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả. Nhận thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng đã có định hướng  chỉ đạo với các chủ trương đúng đắn, kịp thời phục vụ lợi ích quốc gia. Nhiều chủ trương, giải  pháp xử lý các vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề Biển Đông đã tạo được sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn dân và được dư luận quốc tế ủng hộ.
 
    Trong bối cảnh đất nước có nhiều khó khăn, thách thức, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn  kết  toàn  dân. Đảng, Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của  nhân  dân. Nhân dân tích cực tham gia xây dựng Đảng, quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
 
    Đảng  coi  công  tác  xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng là nhiệm vụ then chốt
 
    Công  tác  xây  dựng  Đảng thời gian qua được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân quan tâm và đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhiệm vụ xây dựng Đảng về chính trị được toàn Đảng coi trọng. Đảng kiên định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, chủ quan, bảo thủ, trì trệ hoặc nóng vội, duy ý chí. Đảng coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc hoạt động. Năng lực hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng có nhiều tiến bộ. Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng được coi trọng, nâng cao về chất lượng và hiệu quả, góp phần tạo ra sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tích cực đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển  hóa” trong nội bộ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh. Đã tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, tổng kết một số vấn đề lý luận, thực tiễn qua 30 năm đổi mới, v.v...
 
    Đảng coi trọng rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên. Việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh Học tập và làm theo tư tưởng, phong cách, đạo đức Hồ Chí Minh đạt kết quả quan trọng. Tổ chức bộ máy của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu, nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn. Đảng chỉ đạo việc thí điểm một số mô hình đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền các cấp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từng  bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và việc phát triển, nâng cao chất lượng đảng viên được các cấp ủy đảng tập trung chỉ đạo thực hiện, nhất là đối với tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có nhiều khó khăn, những địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, thu hẹp đáng kể tình trạng chi bộ sinh hoạt ghép hoặc chưa có chi bộ ở các thôn, ấp, bản, làng. Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế và doanh nghiệp tư nhân tăng lên.
 
    Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy  trình, bảo đảm dân chủ hơn. Việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp được dư luận đồng tình. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ đã thực hiện theo quy hoạch. Đã tiến hành xây dựng quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh chủ chốt của Đảng, Nhà nước. Quy định thực hiện chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo chức danh có tác dụng tốt. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đạt nhiều kết quả, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo đảm an ninh chính trị. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng được tăng cường, có hiệu lực, hiệu quả. Việc tham mưu, đề xuất, sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản mới của Đảng đồng bộ và phù hợp hơn. Tiếp tục củng cố, kiện toàn ủy ban kiểm tra và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp.
 
    Đảng và Nhà nước thể hiện quyết tâm chính trị trong đấu tranh PCTN, lãng phí. Nhận thức và thực tiễn đấu tranh PCTN, lãng phí trong thời gian qua được nâng cao trong hệ thống chính trị, trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Đảng, Nhà nước tiếp tục ban hành các quy định, chính sách, pháp luật và tăng cường hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN và các đơn vị chuyên trách PCTN. Nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh, được dư luận đồng tình ủng hộ, tạo sức mạnh răn đe, phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Công tác dân vận của Đảng được quan tâm và có bước đổi mới cùng với việc ban hành, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế đã bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Đã áp dụng nhiều hình thức vận động, tập hợp Nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài.
 
    Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến mới. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo đi đôi với phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu được nâng cao. Đảng coi trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, cấp ủy, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, trong Mặt trận Tổ quốc và các các tổ chức chính trị - xã hội. Đảng đã có nhiều đổi mới trong việc ra Nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Tiếp tục chủ trương cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, Nhà nước theo hướng giảm bớt thủ tục, giấy tờ, hội họp, v.v...
 
    Với những thành tựu quan trọng nêu trên, Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm, đòi hỏi phải tiếp tục nỗ lực phấn đấu để khắc phục. Phát huy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ  công  cuộc  đổi  mới,  thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công  bằng, văn  minh”,  vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dịp đón Xuân mới  Kỷ Hợi năm 2019, chúng ta có thể tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam  quang  vinh,  xứng  đáng được nhân dân ta coi là “Đảng của mình”.
PGS.TS Lê Văn Yên
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật)

 

.