Chống chủ nghĩa cá nhân và cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay
Thứ Ba, 05/02/2019, 06:33 [GMT+7]
Đạo đức cách mạng luôn là nền tảng của một Đảng chân chính cách mạng. Xây dựng Đảng về đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”, được thể hiện trong hai tác phẩm là Sửa đổi lối làm việc (tháng 10-1947) và Đạo đức cách mạng (tháng 12-1958). Đó là các tác phẩm bàn về đạo đức cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bài viết phân tích rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hai tác phẩm nói trên và khẳng định đạo đức cách mạng là vì lợi ích của dân tộc và đất nước, Nhân dân, chứ không phải lợi ích cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên cần gương mẫu để quần chúng nhân dân noi theo.
1. V.I.Lênin đề cập sâu sắc về đạo đức cộng sản (1920) và cho rằng, đạo đức không chỉ phản ánh phẩm chất tốt đẹp của con người, của người cộng sản mà còn có khả năng cải tạo xã hội cũ, tạo dựng một xã hội mới -xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ khái niệm đạo đức cách mạng trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Người cho rằng: “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(1). Nhận thức như thế về đạo đức cách mạng đã cho thấy đạo đức cách mạng là vì lợi ích của cách mạng, của dân tộc và đất nước, Nhân dân, chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện giá trị đạo đức cách mạng thì nhất thiết phải khắc phục chủ nghĩa cá nhân, nuôi dưỡng, bồi đắp tinh thần tập thể, giá trị cộng đồng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán những thói hư, tật xấu mà chế độ cũ để lại như lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(2). Đó là bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và những bệnh khác.
Trong tác phẩm "Đạo đức cách mạng", Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và có những kẻ địch chống lại cuộc cách mạng đó. “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”(3). Một loại kẻ địch khác là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen.
“Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng”. “Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm”(4).
Đồng chí Võ Văn Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Nội chính Trung ương, Phó trưởng Đoàn công tác số 2 công bố Kế hoạch kiểm tra công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế tại Bộ Tài chính ngày 22-11-2018 |
Chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm của chế độ xã hội cũ mà ở Việt Nam đó là chế độ phong kiến và chế độ thực dân. Các chế độ đó dựa trên nền tảng kinh tế là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, là kinh tế cá thể, tư nhân và một phần kinh tế tư bản. Chế độ kinh tế đó hướng tới lợi ích vật chất của cá nhân, gia đình hoặc một nhóm, tập đoàn nào đó vì vậy nó nuôi dưỡng và phát triển lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân và phát triển chủ nghĩa cá nhân. Về tư tưởng chính trị, các chế độ xã hội đó đề cao cái tôi, vai trò cá nhân dẫn đến chuyên chế, không có dân chủ thật sự. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ điều đó. Với hệ tư tưởng và chế độ chính trị như thế tất yếu dẫn đến những người cầm quyền chỉ lo cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ và thực thi chính sách bóc lột tàn bạo về kinh tế, không có dân chủ, thậm chí độc đoán, chuyên quyền về chính trị. Ảnh hưởng đó của chế độ cũ là rất nặng nề và khắc phục nó là rất khó khăn. Thực tế đó cũng cắt nghĩa vì sao bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội nghĩa là xây dựng xã hội mới, việc đấu tranh để thoát khỏi những ảnh hưởng xấu, nhất là chủ nghĩa cá nhân lại vô cùng khó khăn và lâu dài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân từ năm 1947 trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc và nêu lên những đòi hỏi cao hơn trong tác phẩm Đạo đức cách mạng khi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội được đặt ra trực tiếp và trước khi đi xa, Người căn dặn toàn Đảng phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiên cứu sâu sắc tác hại và chỉ rõ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân để mọi cán bộ, đảng viên biết mà tránh và ra sức tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người nêu rõ một sự thật: “Chủ nghĩa cá nhân đang ám ảnh một số đồng chí. Họ tự cho mình cái gì cũng giỏi, họ xa rời quần chúng, không muốn học hỏi quần chúng mà chỉ muốn làm thầy quần chúng. Họ ngại làm việc tổ chức, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Họ mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Kết quả là quần chúng không tin, không phục, càng không yêu họ. Chung quy là họ không làm nên trò trống gì”(5).
Chủ nghĩa xã hội là chế độ triệt để giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công, khỏi mọi sự tha hóa và xây dựng nền dân chủ thật sự của số đông, sự công bằng, văn minh vì lợi ích chân chính của mọi người, của cộng đồng. Vì thế, chủ nghĩa cá nhân là xa lạ đối với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(6). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ sự cần thiết phải phân biệt chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân chính đáng.
“Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Nhưng lại phải thấy rằng, chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”. “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(7).
Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân và bảo đảm lợi ích cá nhân của mỗi người chính là nhận thức khoa học về bản chất của chủ nghĩa xã hội và dựa trên hiện thực và đặc điểm của quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phải thấy hết khó khăn và tính phức tạp của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân bởi chủ nghĩa cá nhân biểu hiện tinh vi và được ẩn sau những thủ đoạn khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: Quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”. “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(8).
Vì sao đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân lại khó khăn và lâu dài như vậy. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu chống mà còn phải trừ bỏ, quét sạch, tiêu diệt nó. Đến nay, chủ nghĩa cá nhân vẫn tồn tại, thậm chí phức tạp và tinh vi hơn. Chủ nghĩa cá nhân vừa là nguyên nhân, vừa là biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) ngày 30-10-2016 nêu rõ: “Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”(9).
Trung ương cũng chỉ rõ sự suy thoái về đạo đức, lối sống mà biểu hiện hàng đầu là: “Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình”(10). Một biểu hiện của sự suy thoái là tình trạng “Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực”(11).
2. Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của mọi sự suy thoái, tiêu cực, hư hỏng, song nó lại ẩn trong mỗi con người nên cuộc đấu tranh để từ bỏ nó rất khó khăn phức tạp. Tệ tham nhũng là biểu hiện tệ hại của chủ nghĩa cá nhân. Cuộc đấu tranh PCTN thời gian qua có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị và Tổng Bí thư đã có được những kết quả rất quan trọng, nhất là xử lý những vụ tham nhũng lớn bằng kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đã củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Với quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước, sự ủng hộ của Nhân dân, cần tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh PCTN với những giải pháp bài bản, đồng bộ, kiên trì, trên cơ sở siết chặt kỷ luật Đảng, xử lý nghiêm theo pháp luật. Đấu tranh PCTN hiện nay càng đòi hỏi phải gắn chặt với chống chủ nghĩa cá nhân. Có thể nhấn mạnh một số điểm quan trọng:
Một là, để đẩy lùi tham nhũng, suy thoái, phải đặc biệt chú trọng giáo dục của Đảng, nêu gương, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Việc giáo dục, rèn luyện đạo đức phải tiến hành từ toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân từ mầm non, phổ thông và đại học. Chỉ như vậy mới cung cấp những người cán bộ trẻ tuổi có đức, có tài cho đất nước. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị lại không ngừng được giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh tụ tiền bối và theo đúng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức Đại hội XII của Đảng đã đề ra. Giáo dục của Đảng phải luôn luôn gắn liền với tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên. Có được người tốt, cán bộ tốt, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Với mỗi người phải “Gian nan rèn luyện mới thành công”. Đảng hết sức chú trọng giáo dục cho cán bộ, đảng viên ở tất cả các cấp. Cái gốc vẫn là giáo dục, trang bị lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có cái gốc vững bền đó mới có thể ngăn chặn, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, tham nhũng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nhấn mạnh việc tổ chức học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên. Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học. Coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng, “xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân”(12).
Cùng với sự giáo dục, huấn luyện của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên ra sức tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) tháng 10-2018 quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của cán bộ lãnh đạo cấp cao, có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng Đảng về đạo đức, đổi mới phong cách làm việc và phong cách, phương thức lãnh đạo. Nêu gương về đạo đức, lối sống, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về tính tiên phong, về trung thành với lý tưởng cách mạng, về học tập, rèn luyện, về tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, đất nước, nhân dân, làm tốt điều đó, nhất định tình trạng suy thoái, tiêu cực, trong đó có tham nhũng sẽ được ngăn chặn, đẩy lùi. Nêu gương là sự giáo dục có hiệu quả.
Hai là, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay đòi hỏi phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, pháp luật của Nhà nước, mọi cán bộ, đảng viên sống và làm việc trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi Đảng phải giữ nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới. Kỷ luật của Đảng là kỷ luật tự giác nghĩa là mọi cán bộ, đảng viên tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao, đề cao trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, làm chủ bản thân, không làm điều gì khuất tất. Kỷ luật của Đảng cũng là kỷ luật sắt nghĩa là rất nghiêm khắc, nghiêm minh. Chỉ có như vậy Đảng mới có sức mạnh và mỗi cán bộ, đảng viên mới tránh được sai phạm. Kỷ luật của Đảng có ý nghĩa răn đe, cảnh tỉnh, cảnh báo đồng thời hướng những người sai phạm có thể sửa chữa để tiến bộ. Trong điều kiện Đảng cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kỷ luật của Đảng gắn liền với pháp luật của Nhà nước.
Cán bộ, đảng viên sai phạm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự phải được xử lý nghiêm minh không có vùng cấm, không có ngoại lệ và mọi người bình đẳng trước pháp luật. Việc xử lý các vụ tham nhũng lớn trong thời gian vừa qua, đã cho thấy sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước và cũng có thêm những kinh nghiệm, bài học trong PCTN. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nhấn mạnh giải pháp: “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; cán bộ, đảng viên vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, chính xác, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng”.
Cần nhấn mạnh, kết quả chống tham nhũng và tiêu cực, suy thoái vừa qua có vai trò rất quan trọng của các cơ quan chức năng, nhất là Ủy ban Kiểm tra Trung ương, các cơ quan điều tra của Công an, Viện kiểm sát và Tòa án. Đã nghiêm chỉnh thực hiện giải pháp do Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đề ra: “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, điều tra và các cơ quan tư pháp để nâng cao hiệu quả công tác PCTN, lãng phí, xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ sai phạm theo quy định của pháp luật”.
Ba là, để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có kết quả cần phải hoàn chỉnh cơ chế, thể chế, quy định về quản lý kinh tế, quản lý tài chính, ngân sách, nguồn vốn và tài sản công, tài nguyên, đất đai và tăng cường kiểm soát quyền lực. Những vụ tham nhũng, tiêu cực lớn gần đây được điều tra và xử lý đều cho thấy về quản lý còn nhiều kẽ hở, cả quản lý tài sản và quản lý cán bộ. Những kẽ hở đó khiến cho những người xấu có thể lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước; những kẻ cơ hội chính trị có thể tham nhũng quyền lực và chính sách. “Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển”(13).
Cần thiết phải quản lý chặt chẽ tài sản và làm tốt công tác cán bộ, lựa chọn và quản lý, bố trí cán bộ, nhất là các lĩnh vực liên quan đến tiền bạc, của cải, các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ vừa thành lập và đưa vào hoạt động Ủy ban quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp. Việc thực hiện Luật doanh nghiệp, Luật tài chính, ngân sách, Luật đất đai, Luật tài nguyên, v.v… phải rất chặt chẽ và có sự giám sát đối với từng tổ chức và cá nhân có trách nhiệm và quyền hạn trên các lĩnh vực đó cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đề cập giải pháp, về cơ chế, chính sách đã nhấn mạnh sự cần thiết phải “rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế... Tăng cường hiệu quả công tác phòng, chống rửa tiền, chuyển mạnh từ thanh toán tiền mặt sang thanh toán không dùng tiền mặt”(14).
Thực hiện tốt, đồng bộ những vấn đề bức thiết mà Nghị quyết Trung ương 4 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) đặt ra và thực hiện những quy định về trách nhiệm nêu gương của lãnh đạo cấp cao mà Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) đã ban hành, thực hiện có hiệu quả Luật PCTN (sửa đổi), Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 6 vừa thông qua, nhất định quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đạo đức cách mạng, PCTN sẽ có được kết quả tích cực, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H.2011, t.5, tr.292. (2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.5, tr.295.
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.605-606.
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.602.
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.609.
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.609.
(7) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.610.
(8) Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, t.11, tr.611.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII),Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.24-25.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu đã dẫn, H.2016, tr.30.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu đã dẫn,H.2016, tr.31.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Tài liệu đã dẫn, H.2016, tr.37. (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI), Nxb CTQG, H.2012, tr.23.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), Văn phòng
Trung ương Đảng, H.2016, tr.41.
|
PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc
(Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)