Thứ Ba, 26/11/2024, 23:19 [GMT + 7]
.
.

Xã hội hóa hoạt động công chứng: Những kết quả đạt được và một số vướng mắc, tồn tại

Thứ Ba, 24/09/2013, 14:33 [GMT+7]

Xã hội hóa hoạt động công chứng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này”. Thể chế quan điểm này, Luật công chứng 2006 đã tạo ra một khung pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động công chứng. Sau 7 năm thi hành, những kết quả bước đầu đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện cho phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa và trở thành một trong những dịch vụ công quan trọng, tạo ra những bảo đảm pháp lý về quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa rủi ro, tranh chấp.

Một Văn phòng công chứng
Một Văn phòng công chứng

Theo Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật công chứng của Bộ Tư pháp ngày 13-5-2013: Thực hiện chủ trương xã hội hóa công chứng, số lượng tổ chức hành nghề công chứng và các công chứng viên đã có sự phát triển nhanh chóng trong thời gian qua. Đến nay, cả nước có 625 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 138 Phòng công chứng và 487 Văn phòng công chứng (tăng 4,77 lần so với thời điểm trước khi Luật công chứng có hiệu lực); có 1.606 công chứng viên (tăng 1.213 người). Các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã công chứng được gần 7 triệu việc, với doanh thu gần 2.780 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 1.000 tỷ đồng. Các tổ chức hành nghề công chứng được phân bố tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và đang phát triển theo quy mô lớn (gần 10 công chứng viên). Các Văn phòng công chứng được thành lập theo chủ trương xã hội hóa đã từng bước hoạt động ổn định. Công tác quản trị, điều hành tổ chức, hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng được cải tiến theo hướng chuyên nghiệp hóa. Công chứng từ chỗ là một thủ tục hành chính đơn thuần nay được coi là một ngành nghề chuyên sâu. Chứng nhận giao dịch, hợp đồng từ chỗ là một nhiệm vụ, quyền hạn “độc tôn” của cơ quan hành chính nhà nước giờ đây đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức hành nghề công chứng, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện các yêu cầu công chứng.

Với những kết quả nêu trên, hoạt động công chứng trong thời gian qua đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều người lao động; tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc xã hội hóa hoạt động công chứng còn một số khó khăn, vướng mắc và bất cập. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng được triển khai chưa đồng bộ, chưa theo quy hoạch và chưa được quản lý chặt chẽ. Do đó, sự phân bổ các tổ chức hành nghề công chứng còn chưa đồng đều, chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn (cá biệt có nơi phát triển 11 tổ chức hành nghề công chứng trên một địa bàn cấp huyện); còn ở các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát triển thì số lượng tổ chức hành nghề công chứng rất ít, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch.

Thứ hai, hoạt động của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự ổn định, bền vững (Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập hoạt động nên khi công chứng viên ốm đau dài ngày hoặc chết, nghỉ việc thì không có công chứng viên khác để tiếp nhận và giải quyết các yêu cầu công chứng của người dân), chưa có sự liên kết trong hành nghề, có sự cạnh tranh không lành mạnh, trình độ quản lý còn bất cập. Hiện tượng không tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục, thời gian, địa điểm công chứng vẫn xảy ra. Một số Văn phòng công chứng bố trí điểm tiếp nhận hồ sơ công chứng ở các địa bàn ngoài trụ sở của tổ chức, không niêm yết lịch làm việc; thu phí công chứng, thù lao công chứng cao hơn quy định, thu phí không ghi biên lai, hóa đơn hoặc thu cao hơn nhưng khi ghi hóa đơn chỉ thu bằng mức phí niêm yết; vi phạm quy định về lưu trữ hồ sơ công chứng hay trích lại phần trăm thù lao công chứng cho người yêu cầu công chứng; đầu tư vốn vào các Văn phòng công chứng khác…, gây ảnh hưởng lớn đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động công chứng.

Thứ ba, việc đào tạo, phát triển đội ngũ công chứng viên còn thiếu tính quy hoạch. Một số địa phương, số lượng công chứng viên vượt quá so với yêu cầu thực tế, hoặc thiếu công chứng viên do không có nguồn để bổ nhiệm khiến chủ trương xã hội hóa không thực hiện được, chẳng hạn tại thành phố Hà Nội có tới 282 công chứng viên, thành phố Hồ Chí Minh có 124 công chứng viên; trong khi đó một số địa phương có số lượng công chứng viên rất ít, chỉ dưới 5 người (tỉnh Bến Tre, Hà Giang, Điện Biên, Lai Châu, Tuyên Quang…).

Thứ tư, việc tập sự hành nghề công chứng chưa thật sự hiệu quả ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công chứng viên. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ công chứng viên đã được bổ nhiệm chưa được thực hiện thường xuyên, dẫn đến chất lượng của một bộ phận công chứng viên đang hành nghề chưa theo kịp yêu cầu công việc. Một bộ phận công chứng viên còn yếu về năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ; một số công chứng viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp dẫn đến những sai sót trong hoạt động công chứng. Phần lớn các công chứng viên yếu kém này là các công chứng viên được miễn đào tạo, miễn tập sự hành nghề công chứng.

Thứ năm, công tác quản lý nhà nước ở một số địa phương còn lỏng lẻo; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có lúc chưa chặt chẽ; việc hướng dẫn địa phương trong việc thi hành pháp luật công chứng có lúc chưa kịp thời, đôi khi còn chồng chéo giữa các Bộ, ngành liên quan dẫn đến lúng túng cho địa phương khi thực hiện; công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức ứng xử hành nghề công chứng còn có điểm chưa đáp ứng được yêu cầu, việc xử lý vi phạm có nơi, có lúc chưa kịp thời, chưa nghiêm.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân sau:

- Nhận thức về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, về bản chất của hoạt động công chứng, về chủ trương tách bạch giữa công chứng và chứng thực của một bộ phận cơ quan, cán bộ quản lý nhà nước về công chứng, của người dân còn chưa đầy đủ. Thời gian qua đã xuất hiện tâm lý phân biệt công chứng giữa Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Tại một số nơi, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất từ chối đăng ký hợp đồng đã công chứng tại Văn phòng công chứng hoặc từ chối cung cấp thông tin địa chính cho Văn phòng công chứng, UBND cấp xã không phối hợp với Văn phòng công chứng trong việc niêm yết văn bản liên quan đến việc công chứng các giao dịch về thừa kế. Thậm chí còn có một số quan điểm cho rằng không cần thiết phải quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng khi tiến hành xã hội hóa hoạt động công chứng…

- Việc xã hội hóa công chứng được thực hiện từ năm 2007 nên còn là vấn đề mới mẻ, trong khi đó, cơ sở vật chất, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước chưa được củng cố, kiện toàn, năng lực tự quản còn hạn chế, chưa theo kịp với những yêu cầu mới của công tác quản lý việc xã hội hóa hoạt động công chứng.

- Thể chế về tổ chức, hoạt động công chứng mặc dù đã từng bước hoàn thiện, song vẫn còn nhiều bất cập. Luật công chứng còn nhiều quy định chưa phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế về hành nghề công chứng. Quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên trong Luật công chứng vẫn còn chung chung hoặc chưa dự liệu được hết một số vấn đề bất cập (việc chuyển đổi Văn phòng công chứng một công chứng viên sang loại hình Văn phòng công chứng từ hai công chứng viên trở lên hoặc ngược lại; khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về bảo hiểm trách nhiệm nghề công chứng; giá trị pháp lý của văn bản công chứng; thành lập tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên; chưa quy định các chính sách ưu đãi phù hợp để phát triển các Văn phòng công chứng tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; quy định về quản lý nhà nước còn một số điểm sơ hở, chưa làm rõ được cơ chế trách nhiệm của UBND cấp tỉnh trong quản lý hoạt động công chứng; chưa có cơ chế phù hợp để hoạt động công chứng phát huy được vai trò tự quản và nghiêm chỉnh thực hiện Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Quyền lợi của công chứng viên chưa bảo đảm khi gặp những rủi ro nghề nghiệp).

- Các quy định liên quan đến công chứng trong Bộ luật dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật công chứng (thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của UBND cấp huyện, cấp xã; thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng; quy định về hộ gia đình, cách xác định các thành viên của hộ gia đình, công chứng giao dịch về tài sản hình thành trong tương lai).

- Đa số địa phương chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu thông tin về bất động sản, chưa có sự kết nối, chia sẻ thông tin bài bản giữa các tổ chức hành nghề công chứng và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất dẫn đến nhiều rủi ro trong hoạt động hành nghề của công chứng viên.

Để khắc phục những tồn hại, hạn chế và vướng mắc nêu trên; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng, phát huy vai trò của công chứng trong phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp đã được xác định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp, xin đề xuất một số nội dung như sau:

Một là, cần tiếp tục đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng. Tuy nhiên, hoạt động công chứng là một loại hình dịch vụ công, công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện dịch vụ này; thực hiện công việc đòi hỏi tính chuyên môn và trách nhiệm pháp lý cao. Do vậy, việc xã hội hóa hoạt động này cần có lộ trình thích hợp. Trong khi trình độ xã hội còn nhiều hạn chế cộng với tính phức tạp, thiếu ổn định của hệ thống pháp luật đã khiến cho nhận thức cũng như thực tiễn thực hiện hoạt động này còn nhiều bất cập. Do vậy, không nên nóng vội chuyển đổi các Phòng Công chứng (đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp) thành Văn phòng Công chứng (hoạt động theo Luật doanh nghiệp) như một số quan điểm hiện nay.

Hai là, sớm ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật công chứng, tập trung vào một số nội dung sau:

- Về công chứng viên: Để nâng cao chất lượng, bảo đảm sự phát triển bền vững của đội ngũ công chứng viên cần quy định chặt chẽ hơn các điều kiện bổ nhiệm công chứng viên. Theo đó, xác định rõ hơn địa vị pháp lý của công chứng viên; quy định rõ công chứng viên chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên; nâng thời gian đào tạo nghề công chứng từ 6 tháng lên 12 tháng; bổ sung quy định người miễn đào tạo phải tham gia khóa bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng. Sửa đổi quy định về tập sự hành nghề công chứng theo hướng không miễn đào tạo nghề công chứng mà chỉ giảm thời gian tập sự đối với đối tượng được miễn đào tạo nghề công chứng trước đây; bổ sung quy định về kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng, quy định công chứng viên chỉ được hành nghề đến 65 tuổi; bổ sung quy định về kiểm tra và tổ chức kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng, bồi dưỡng thường xuyên.

- Về tổ chức hành nghề công chứng: Sửa đổi, bổ sung các quy định về Văn phòng công chứng nhằm cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho Văn phòng công chứng trong việc thay đổi loại hình hoạt động, thúc đẩy phát triển các Văn phòng công chứng quy mô lớn, hoạt động chuyên nghiệp và hiệu quả. Quy định việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng phê duyệt; Phòng Công chứng chỉ được thành lập ở những địa bàn chưa có điều kiện phát triển Văn phòng công chứng để đáp ứng yêu cầu của người dân.

Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020, bảo đảm phát triển các tổ chức hành nghề công chứng rộng khắp và phân bổ hợp lý gắn với địa bàn dân cư trên toàn quốc, đáp ứng đầy đủ nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch của cá nhân, tổ chức trong xã hội, tăng cường tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, khắc phục tình trạng phát triển tổ chức hành nghề công chứng không đồng đều giữa khu vực đô thị với khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.

Bốn là, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo nghề công chứng; tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, đạo đức hành nghề công chứng. Xây dựng quy hoạch công chứng viên căn cứ theo nhu cầu thực tế của địa phương.

Năm là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh những sai phạm và những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động công chứng; hướng dẫn định hướng các công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Luật công chứng và văn bản hướng dẫn thi hành để phát triển lành mạnh các hoạt động công chứng.

Sáu là, xây dựng được cơ sở dữ liệu thông tin về bất động sản, tạo nền tảng kết nối, chia sẻ thông tin giữa các tổ chức hành nghề công chứng và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để khắc phục rủi ro trong hoạt động hành nghề của công chứng viên.

Nguyễn Thảo

(Ban Nội chính Trung ương)

;
.