Banner
Bài 2: Thực trạng của truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp và một số giải pháp, kiến nghị

Truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Thứ Bảy, 13/05/2023, 07:21 [GMT+7]
       Trách nhiệm giải trình là một trong các cơ chế được xác lập nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước; nhân tố quan trọng bảo đảm xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Với tính chất và đặc thù hoạt động khai thác, cung cấp và sử dụng thông tin cho mọi tầng lớp công chúng, báo chí, truyền thông là công cụ có vai trò đặc biệt to lớn đối với việc bảo đảm thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp một cách thực chất và hiệu quả.
 
    1. Quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp
 
    1.1. Quy định của Đảng về truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt tư pháp
 
    Lĩnh vực thông tin, tuyên truyền về thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp nói riêng đã được quy định trong nhiều văn bản của Đảng trong nhiều năm qua(1). Có thể khái quát trên một số yêu cầu và nội dung cốt lõi như sau:
 
    - Thông tin, tuyên truyền về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp không chỉ là một nội dung thể hiện quyền của báo chí, truyền thông và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện quyền tự do báo chí mà đồng thời còn là trách nhiệm chính trị của báo chí, truyền thông đối với yêu cầu xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh;
 
    - Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp là điều kiện căn bản để thực hiện yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp nói chung, là cơ sở để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức, cá nhân công dân, kiến tạo nền tư pháp liêm chính. Với bản chất của báo chí, truyền thông là thông tin đại chúng, là quyền tiếp cận, khai thác thông tin để chuyển tải công khai, trung thực thông tin đến với công chúng, bởi vậy, giữa báo chí, truyền thông với với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp luôn có mối quan hệ tương hỗ, khách quan;
 
    - Để báo chí, truyền thông có cơ sở thực hiện hiệu quả nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan tư pháp phải bảo đảm thực hiện đồng bộ, đầy đủ và thực chất các yêu cầu (về hình thức, trình tự, nội dung, phạm vi,..) thuộc trách nhiệm giải trình; đồng thời tạo điều kiện, tôn trọng cơ quan báo chí, nhà báo thực hiện nghiệp vụ báo chí, truyền thông về thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp;
 
    - Các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tiến hành đánh giá, rà soát thể chế chính trị, pháp lý về hoạt động của báo chí, truyền thông trong tác nghiệp về thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp;

    - Truyền thông, báo chí về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp là hoạt động vừa mang tính nghề nghiệp báo chí, đồng thời, có tính chính trị, pháp lý rất cao, do đó, các cơ quan báo chí, truyền thông phải luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ nhà báo cũng như đội ngũ làm công tác báo chí, truyền thông nói chung bảo đảm về phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cũng như tạo các điều kiện thuận lợi trong công tác, bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động báo chí, truyền thông trong tình hình mới, yêu cầu hoạt động báo chí, truyền thông về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp nói riêng;
 
Hoạt động tác nghiệp của các cơ quan báo chí (ảnh Đặng Phước)
Hoạt động tác nghiệp của các cơ quan báo chí (ảnh Đặng Phước)
    - Các cơ quan báo chí, truyền thông phải luôn đổi mới, hoàn thiện chất lượng của báo chí, truyền thông, nhất là chú trọng tăng cường, mở rộng các loại hình báo chí, truyền thông nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao đối với việc thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong đó có thông tin, tuyên truyền về trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tư pháp;
 
    - Các cơ quan quản lý báo chí, các cơ quan báo chí cần có sự đánh giá để hoàn thiện các quy định về hoạt động của truyền thông xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của thời đại công nghiệp 4.0, sự bùng nổ ngày càng lớn của truyền thông xã hội đồng thời bảo đảm môi trường truyền thông xã hội an toàn, phát triển bền vững.
 
    1.2. Quy định pháp luật về truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt tư pháp 
 
    Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và trách nhiệm của báo chí, truyền thông tham gia vào hoạt động thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực hoạt động tư pháp nói riêng đã được xác định rõ trong hệ thống pháp luật của nước ta(2). Có thể khái quát trên một số vấn đề cốt lõi như sau:
 
    - Các quy định pháp luật về báo chí, truyền thông đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp đã thể hiện được vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của báo chí, truyền thông đối với việc bảo đảm xây dựng và hoàn thiện nền tư pháp liêm chính, thượng tôn pháp luật, cam kết và thực hiện thực chất trách nhiệm giải trình nói riêng;
 
    - Các quy định pháp luật đã bước đầu định hình được các nguyên tắc chung trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trên báo chí, truyền thông (như trách nhiệm cung cấp thông tin cho báo chí, trách nhiệm bảo đảm sự tham gia của báo chí trong các hoạt động tố tụng,…), qua đó, góp một phần quan trọng nâng cao tính công khai, minh bạch, tính thực chất trong hoạt động giải trình của các cơ quan tư pháp;
 
    - Cùng với Luật Báo chí năm 2016 và các quy định pháp luật có liên quan đã từng bước hình thành cơ sở pháp lý khá đồng bộ bảo đảm sự tham gia của các cơ quan báo chí, truyền thông, loại hình báo chí và mạng xã hội đối với việc công bố, đăng tải thông tin (từ phía các cơ quan tư pháp thực hiện trách nhiệm giải trình), khai thác thông tin, đưa tin (các cơ quan báo chí, truyền thông nói chung) về việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp.
 
    - Các quy định về phòng ngừa, xử lý trách nhiệm, vi phạm (trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức) trong lĩnh vực thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp cũng như trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan báo chí, truyền thông, nhà báo, các tổ chức, cá nhân đã góp phần tăng cường tính tuân thủ đối với các chủ thể có liên quan, từng bước đảm bảo tính trật tự, an toàn trong hoạt động thông tin, tuyên truyền nói chung.
 
    Bên cạnh các kết quả nêu trên, các quy định pháp luật về truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp thời gian qua cũng đang còn một số tồn tại chủ yếu sau:
 
    - Hệ thống pháp luật về báo chí đang còn nhiều bất cập: theo kết quả nghiên cứu, rà soát Luật Báo chí năm 2016 và thực hiện rà soát tổng số 128 văn bản có liên quan (bao gồm 41 luật, 58 nghị định, 27 thông tư và 02 thông tư liên tịch văn bản quy phạm pháp luật) của Bộ thông tin và truyền thông, đến tháng 4/2022đã phát hiện ra 8 nhóm vấn đề với 27 nội dung có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp với thực tiễn của pháp luật báo chí, trong đó có một số vấn đề cụ thể như: Về cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, quy định để thúc đẩy chuyển đổi số báo chí trong thời đại phát triển công nghệ 4.0 sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo(3).
 
    - Về vấn đề cải chính trên báo chí: Luật Báo chí năm 2016, Điều 42 quy định “khi có văn bản kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vụ việc mà báo chí đã đăng, phát là sai sự thật, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân… thì cơ quan báo chí phải đăng, phát phần nội dung kết luận đó và nội dung cải chính của cơ quan báo chí, của tác giả tác phẩm báo chí”. tuy nhiên, chưa có các quy định cụ thể trách nhiệm gửi kết luận của cơ quan ban hành quyết định đến cơ quan báo chí để thực hiện việc cải chính theo quy định, dẫn đến việc cơ quan báo chí không biết để đăng thông tin, xảy ra ở một số vụ việc tranh chấp liên quan đến nội dung mà cơ quan báo chí đăng tải.
 
    - Đang còn thiếu cơ sở pháp lý bảo đảm sự giám sát đồng bộ và toàn diện của công chúng đối với việc thực hiện hoạt động báo chí, truyền thông trong lĩnh vực truyền thông chính sách (bao gồm cả việc phản ánh trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp) nhằm thực hiện phòng ngừa, kiểm soát, xử lý các biểu hiện lợi ích nhóm, hướng lái thông tin làm sai lệnh nhận thức của công chúng đối với các chủ trương, quyết định trong hoạt động tư pháp.
 
    - Quy định về phòng ngừa và xử lý trong lĩnh vực hoạt động báo chí, truyền thông chưa thật sự đáp ứng yêu cầu, tính chất, đặc điểm của hoạt động báo chí, truyền thông hiện nay, như: Chưa dự liệu được nhiều biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật mới phát sinh trong lĩnh vực thông tin, báo chí (các biểu hiện lợi ích nhóm, tiêu cực trong hoạt động truyền thông về trách nhiệm giải trình) hay chưa luật hóa một số hành vi trên mạng xã hội (như hoạt động livestream,…) dẫn đến khó khăn khi xử lý.
 
    - Một số các quy định có liên quan đến việc đảm bảo thực hiện quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan báo chí, nhà báo trong lĩnh vực tư pháp đang vô hình chung tạo ta không ít khó khăn do thiếu rõ ràng, cụ thể. Đơn cử quy định về hạn chế tiếp cận của báo chí đối với các thông tin (ví dụ quy định tại Điều 6, Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019, quy định những nội dung không thuộc phạm vi giải trình: 1. Nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật kinh doanh theo quy định của pháp luật. 2. Nội dung chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị mà chưa ban hành, chưa thực hiện hoặc nội dung chỉ đạo, điều hành của cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới). 
 
    2. Thực trạng hoạt động truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp thời gian qua
 
    Theo thống kê, tính đến hết tháng 5/2022: Cả nước có 815 cơ quan báo chí, gồm 138 báo và 677 tạp chí, trong đó có 29 cơ quan báo chí chỉ thực hiện loại hình điện tử. Cả nước có 72 cơ quan hoạt động phát thanh, truyền hình (báo nói, báo hình), cả nước hiện có khoảng 18.000 nhà báo được cấp thẻ(4). Với sự phát triển về nhân lực, các cơ quan báo chí và sự đa dạng các loại hình truyền thông đa phương tiện đã tạo nên mạng lưới thông tin rộng khắp, góp phần tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời, sinh động đến với mọi tầng lớp nhân dân.
 
    Báo chí, truyền thông đã từng bước đáp ứng vai trò là diễn đàn để các tổ chức và các tầng lớp nhân dân biểu đạt  các tâm tư, đóng góp ý kiến của mình đến các cơ quan nhà nước nói chung, việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp nói riêng. Việc duy trì, nâng cao chất lượng các loại hình, tác phẩm báo chí trong đăng tải ý kiến của tổ chức, cá nhân về công khai, minh bạch góp phần thúc đẩy hoạt động công khai, minh bạch ngày càng được sâu rộng, đa chiều; phát huy vai trò tích cực của các cơ quan truyền thông, báo chí trong việc phát hiện, phản ánh chính xác, kịp thời những mặt tích cực và những yếu kém, thiếu sót, hạn chế của tổ chức, cá nhân trong thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
 
    Nhiều cơ quan báo chí, trong đó có cơ quan báo chí của các cơ quan tư pháp đã triển khai xây dựng, thiết lập kênh/mục tiếp nhận, xử lý, phản hồi kiến nghị của cá nhân, tổ chức nhằm đảm bảo thực hiện quy định về công khai, minh bạch (trên Cổng thông tin điện tử hay Báo điện tử của ngành, của cơ quan). Nhiều tờ báo, đặc biệt là báo mạng điện tử của các cơ quan tư pháp cũng chủ động tạo diễn đàn để bạn đọc trao đổi, góp phần thúc đẩy nội dung công khai, minh bạch, sự tham gia phản biện đối với các nội dung giải trình về chính sách pháp luật, kết quả hoạt động tố tụng tư pháp.
 
    Góp một phần quan trọng vào các kết quả tích cực trong lĩnh vực truyền thông, báo chí về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp như nêu trên, bên cạnh sự nỗ lực của các cơ quan báo chí, truyền thông, đồng thời, cũng phải khẳng định sự tham gia, đồng hành ngày càng tích cực và thực chất hơn của các cơ quan có trách nhiệm giải trình. thể hiện trên hai khía cạnh: 
 
    Thứ nhất, đó là sự tăng cường thực hiện trách nhiệm giải trình chủ động thông qua việc các cơ quan tư pháp quan tâm kiện toàn, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí của ngành để đăng tải các chủ trương, chính sách, quyết định tư pháp, tố tụng để mọi tầng lớp công chúng có điều kiện được tiếp cận sớm, đầy đủ.
 
    Thứ hai, các cơ quan tư pháp cho thấy đã có sự cởi mở với báo chí truyền thông, tạo điều kiện cho báo chí, truyền thông tác nghiệp thuận lợi trong hoạt động tư pháp(5).
 
    Đánh giá về vai trò của báo chí, truyền thông trong công tác đấu tranh PCtN, tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác PCTN, TC, tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng khẳng định: “Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN được tăng cường và có nhiều đổi mới... Việc công khai kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế; chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận quan tâm, cũng đã góp phần định hướng tốt dư luận xã hội và thể hiện sự công khai, minh bạch trong xử lý tham nhũng. Các cơ quan thông tấn, báo chí đã tích cực vào cuộc, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng trong PCTN; vừa tuyên truyền, vừa tích cực đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực xấu, thù địch về công tác PCTN, TC... cơ quan có thẩm quyền xử lý các thông tin do báo chí nêu về tiêu cực, tham nhũng”. Đánh giá nêu trên cũng đồng thời phản ánh và ghi nhận nỗ lực và kết quả của báo chí, truyền thông, đồng thời, là sự phối hợp hiệu quả giữa báo chí, truyền thông với các cơ quan tư pháp thực hiện thông tin, tuyên truyền về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp mói riêng thời gian qua.
 
    Bên cạnh một số kết quả như đã nêu, hoạt động truyền thông, báo chí về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp trong thời gian qua cho thấy đang còn một số tồn tại sau:
 
    - Vẫn còn hiện tượng có cơ quan tư pháp do nhận thức chưa đầy đủ về trách nhiệm phối hợp với cơ quan báo chí, truyền thông nên trong thực hiện hoạt động trách nhiệm giải trình vẫn còn tâm lý khép kín, lo ngại lộ lọt thông tin hoạt động của ngành nên việc cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí, truyền thông hay tạo điều kiện trong hoạt động tác nghiệp báo chí vẫn còn mang tính hình thức, đối phó;
 
    - Việc đăng tải các thông tin liên quan đến trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch trên hệ thống thông tin của cơ quan tư pháp, tố tụng chủ yếu tập trung vào các nội dung bắt buộc theo theo quy định của pháp luật(6), còn đối với các chủ trương, chính sách tư pháp liên quan đến ngành vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức;
 
    - Đang còn tình trạng cơ quan, người có trách nhiệm trong các cơ quan tư pháp cố tình né tránh cơ quan báo chí, không chịu cung cấp thông tin cho báo chí, không thực hiện trách nhiệm người phát ngôn hoặc cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật;
 
    - Không ít cơ quan tư pháp lạm dụng các rào cản liên quan đến quy định nội dung không thuộc phạm vi giải trình (nhất là các thông tin thuộc diện bí mật nhà nước) để thoái thác hoặc hạn chế việc cung cấp thông tin, thực hiện trách nhiệm giải trình trước báo chí, truyền thông;
 
    - Thực tế cho thấy, vẫn còn cơ quan tư pháp, trong hoạt động tố tụng vẫn đòi hỏi thêm giấy tờ khác ngoài thẻ nhà báo (Luật Báo chí năm 2016 chỉ quy định phóng viên chỉ cần xuất trình thẻ nhà báo), gây khó khăn cho phóng viên trong quá trình tác nghiệp;
 
    - Về phía các đơn vị báo, nhất là đối với một số nhà báo có tình trạng, do nhận thức chính trị hạn chế hoặc bị tác động bởi tiêu cực, lợi ích nhóm, phe cánh đã có biểu hiện khai thác, xử lý thông tin không chính thống, thông tin bị cắt xén, không toàn diện, thậm chí võ đoán, tự đoán định các tình huống và kết luận tư pháp một cách thiếu khách quan, có chủ ý dẫn đến sự hiểu lầm, phản ứng tiêu cực của dư luận (thực tế này đang khá phổ biến trên truyền thông mạng xã hội);
 
    - Quyền tiếp cận thông tin của người dân ở một số khu vực thuộc vùng sâu, vùng xa, dân tộc ít người đang gặp không ít khó khăn. Rõ ràng, cùng với tính chưa hoàn thiện trong cơ chế thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trong hoạt động tố tụng, cộng với môi trường mà sự phát triển dân trí đang còn nhiều hạn chế, truyền thông kém phát triển thì rõ ràng đây chính sự cản trở để nhóm chủ thể nêu trên được tiếp cận với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung, các chính sách, trong đặc biệt các chính sách về tư pháp, hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp nói riêng(7).
 
    3. Giải pháp tăng cường hiệu quả công tác truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp
 
    3.1. Giải pháp về thể chế
 
    - Tiếp tục rà soát, đánh giá, hoàn thiện thể chế truyền thông, báo chí với trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp, gắn với quan điểm, chủ trương của Đảng theo tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 “về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”, đó là: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và sự giám sát của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; 
 
    - Hoàn thiện các quy định pháp luật về báo chí, truyền thông, trong đó chú trọng bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật nhằm tạo điều kiện thực chất hơn nữa để các cơ quan báo chí, nhà báo thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin từ phía các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu thông tin nói chung, trong lĩnh vực thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp nói riêng;
 
    - Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Luật Báo chí năm 2016, các luật về tiếp cận thông tin và an toàn thông tin mạng để bảo đảm sự đồng bộ, tương thích trong việc bảo đảm các quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí đã được Hiến pháp quy định;
 
    - Hoàn thiện các quy định pháp luật về tiếp cận thông tin, bảo vệ bí mật Nhà nước nhằm bảo đảm cơ chế thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của các nhà báo và cơ quan báo chí, truyền thông. theo đó, cần rà soát các quy định hiện hành về bí mật nhà nước trên nguyên tắc xác định phạm vi bí mật nhà nước phải vừa bảo vệ được các thông tin bí mật quan trọng của Đảng, Nhà nước, vừa thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. trên cơ sở đó, nhằm hạn chế hiện tượng cơ quan nhà nước lạm dụng kẽ hở để đóng dấu mật, cản trở việc thực hiện cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí;
 
    - Quy định rõ về hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động báo chí, truyền thông nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất và cụ thể về thẩm quyền, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực thông tin, báo chí về trách nhiệm giải trình trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp. Cần chú ý kiện toàn cơ chế phối hợp trong công tác chỉ đạo, phối hợp trong lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động truyền thông, báo chí giữa các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
 
    - Các cơ quan của Đảng, Nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành Quy định chuyên đề của Đảng về hoạt động công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, trong đó có quy định về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của cơ quan báo chí, truyền thông nhằm thúc đẩy mạnh mẽ và thực chất hoạt động này.
 
    3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện
 
    - Triển khai quy định của Luật Báo chí về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của báo chí, trong đó, phải quán triệt Báo chí không chỉ “tuyên truyền, phổ biến” mà còn phải là “góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” (Điều 4, Luật Báo chí năm 2016); cũng như tinh thần chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII, đó là: “Có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của nhân dân”. Theo đó, phải bảo đảm xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế để báo chí được thông tin đầy đủ, thông tin sớm các nội dung hoạt động tố tụng thuộc trách nhiệm công khai, giải trình của cơ quan tư pháp, đồng thời, tạo lập các diễn đàn, mở rộng loại hình báo chí và tiện ích của báo chí, truyền thông để người dân được tiếp cận thông tin một cách thuận lợi.
 
    - Các cơ quan tư pháp phải bảo đảm các điều kiện để báo chí, truyền thông được cung cấp, tiếp cận thông tin một cách trực tiếp, kịp thời đối với các quyết định, nội dung hoạt động trong lĩnh vực tư pháp thuộc phạm vi công khai, giải
trình. Để triển khai tốt yêu cầu này, các cơ quan tư pháp cần quy định rõ danh mục thông tin bắt buộc phải công khai, đầu mối cung cấp thông tin. Đồng thời, thiết lập đường dây nóng để trong trường hợp khẩn cấp, báo chí có thể liên lạc trực tiếp với người phát ngôn để thu thấp thông tin được kịp thời, chính xác, tránh trường hợp phóng viên thu thập thông tin qua đường vòng, lãng phí thời gian và không bảo đảm nội dung và tính kịp thời.
 
    - Cơ quan tư pháp cần kiện toàn quy định về đầu mối cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí, nhà báo nhằm tạo điều kiện cho cơ quan báo chí, các nhà báo trong việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin. Đồng thời, cần thiết phải quan tâm xây dựng được đầy đủ cơ sở dữ liệu về thông tin theo lĩnh vực hoạt động tư pháp để các cơ quan báo chí, truyền thông thuận lợi trong việc việc tiếp cận thông tin. Đồng thời, phải tăng cường các kênh giao tiếp, nhất là chú trọng tương tác trực tuyến, trước mắt nâng cấp và cập nhật thường xuyên thông tin hoạt động tư pháp trong phạm vi bắt buộc phải giải trình theo quy định của pháp luật trên website của cơ quan để các tầng lớp nhân dân và các cơ quan báo chí, truyền tông thuận lợi trong việc tìm hiểu và khai thác thông tin.
 
    - Các cơ quan tư pháp cần chú trọng tăng cường trách nhiệm giải trình chủ động thông qua việc chủ động công khai, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp trong phạm vi quy định của pháp luật, đồng thời, cần có các chỉ dẫn, giải trình chính sách góp phần bảo đảm cho mọi người dân và báo chí, truyền thông được tiếp cận sớm, đúng đắn và toàn diện. 
 
    - Các cơ quan tư pháp cần chú trọng rà soát quy định và cách thức phản hồi thông tin từ nhân dân, báo chí, truyền thông có liên quan đến nội dung thuộc phạm vi trách nhiệm giải trình. Khắc phục hiện tượng không phản hồi, phản hồi chậm hoặc phản hồi mang tính hình thức, thủ tục.
 
    - Chú trọng mở rộng, đa dang hóa loại hình báo chí và bảo đảm sự tiếp cận của báo chí, truyền thông đối với khu vực kém phát triển, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng yếu thế để các nhóm chủ thể này có được cơ hội tăng cường hiểu biết các chủ trương, chính sách, pháp luật về tố tụng, tư pháp, từ đó, có điều kiện, cơ hội tham gia thực chất hơn vào quá trình thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp.
 
    - Đẩy mạnh công tác giáo dục về kiến thức cho đội ngũ làm công tác báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, trong đó, cần tập trung nhóm kiến thức về tổ chức bộ máy nhà nước, về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền, các vấn đề về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nói chung, hệ thống cơ quan tư pháp nói riêng; kỹ năng nghề nghiệp báo chí, truyền thông; về đạo đức nghề nghiệp báo chí, truyền thông. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền ý thức, kiến thức đối với cộng đồng khi tham gia truyền thông xã hội về trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm xã hội và trách nhiệm đạo đức về quyền và nghĩa vụ chia sẻ thông tin trên các nền tảng internet.
 
    - Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. trong đó, cần đặc biệt chú trọng việc kiện toàn cơ chế giám sát từ bên trong (giám sát nội bộ trong các cơ quan báo chí, truyền thông) nhằm góp phần tăng cường hơn nữa trách nhiệm chính trị, chuyên môn nghề nghiệp đối với đội ngũ cán bộ, phóng viên, người làm công tác truyền thông nhằm phòng ngừa hiệu quả, đồng thời, xử lý triệt để các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động nghề nghiệp.
 
    - Các cơ quan báo chí, truyền thông, đặc biệt là các cơ quan báo chí lớn của Nhà nước, của Đảng (VTV, VOV, TTXVN, Báo Nhân Dân, truyền hình Quốc hội…) cần tăng cường các chuyên mục về đối thoại chính sách, trong đó, đẩy mạnh hơn nữa sự tương tác sâu rộng của các tầng lớp nhân dân vào nội dung chương trình. Đối thoại, tọa đàm chính sách về tư pháp, tố tụng của các cơ quan tư pháp đang rất cần sự mở rộng, cởi mở hơn với công chúng truyền thông trong bối cảnh quyền tự do, dân chủ ngày càng có sự phát triển mạnh mẽ. 
 
    - Các cơ quan quản lý báo chí, truyền thông, Hội Nhà báo và các cơ quan báo chí phải có các chính sách, biện pháp cụ thể để hỗ trợ, bảo vệ các nhà báo trong hoạt động tác nghiệp báo chí, truyền thông trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, tố tụng, thực hiện trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực hoạt động tư pháp nói riêng.
 
    (1) Nghị quyết số 49-NQ/tW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006 của Ban Chấp hành trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCtN, lãng phí; Nghị quyết số 16-NQ/tW, ngày 01/8/2007 của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 02/02/1999 Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Quy định số 65-QĐ/TW, ngày 03/02/2017 của Ban Bí thư về chỉ đạo, định hướng cung cấp thông tin tuyên truyền PCTN; Chỉ thị số 43-Ct/TW, ngày 08/4/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam trong tình hình mới; Kết luận số 12-KL/TW, ngày 12/4/2022 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN; Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành trung ương về “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới”…
    (2) Điều 25 Hiến pháp năm 2013. Luật báo chí năm 2016 (Điều 4, 9, 11, 12, 25, 26). Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (Điều 25). Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Điều 234). Bộ Luật tố tụng hành chính năm 2015 (Điều 109, 153). Luật PCTN năm 2018 (Điều 13, 14, 75). Nghị định số 09/2017/NĐ-CP, ngày 09/02/2017 của Chính phủ quy định chi tiết việc phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước (Điều 4, 5, 6, 9). Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCtN (Điều 64, 67). Quy chế về thực hiện dân chủ trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân (ban hành kèm theo Quyết định số 161/QĐ-VKSTC-t1, ngày 30/3/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) (Điều 16). Quyết định số 87/QĐ-HĐTC, ngày 04/7/2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia về về ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán (Điều 12). Quyết định số 08/2007/QĐ-BTP, ngày 16/7/2007 của Bộ trưởng Bộ tư pháp “ban hành Quy tắc công khai, minh bạch trong các lĩnh vực hoạt động của ngành tư pháp”. Nghị định số 119/2020/NĐ-CP, ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản. Pháp lệnh số: 02/2022/UBtVQH15, ngày 18/8/2022 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng (khoản 7, Điều 22). Quyết định số 874/QĐ, ngày 17/6/2021 của Bộ thông tin và truyền thông về việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội...
    (3) https://cspl.mic.gov.vn/Pages/tintuc/138439/Ket-qua-nghien-cuu--ra-soat-Luat-Bao-chi-nam-2016.html
    (4) Nguồn: https://cspl.mic.gov.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=138441#:~:text=Hi%E1%BB%87n%20tr%E1%BA%A1ng%20c%C3%A1c%20c%C6%A1%20quan,hi%E1%BB%87n%20lo%E1%BA%A1i%20h%C3%ACnh%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD.
    (5) Bản tin: trong các ngày xét xử công khai vụ án hình sự xảy ra tại Ngân hàng NaviBank tại tòa án nhân dân tP. Hồ Chí Minh, sáng ngày 02/3/2018, khi phiên tòa bắt đầu, một số luật sư đề nghị chủ tọa không cho phép báo chí tác nghiệp, để bảo vệ quyền nhân thân, quyền hình ảnh của các bị cáo được Bộ luật dân sự và Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định. Chủ tọa đã trả lời với các luật sư, đây là phiên tòa hình sự xét xử công khai, báo chí được tác nghiệp theo đúng luật báo chí, chịu trách nhiệm về bài viết, khi tác nghiệp không gây mất trật tự phiên tòa - Nguồn: https://vietgiaitri.com/bao-chi-duoc-dang-hinh-bi-cao-tai-phien-toa-20180304i3109354/
    (6) tham khảo Nghị quyết số 03/2017-NQ/HĐtP, ngày 16/3/2017 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao về việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của tòa án. 
    (7) Theo Đại biểu Quốc hội Bế trung Anh: “Đồng bào dân tộc thiểu số là đối tượng dễ bị tổn thương và có nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận thông tin so với các vùng khác trên cả nước. Đề nghị Bộ thông tin và truyền thông rà soát lại các chính sách, từ đó có những giải pháp căn cơ, kế hoạch cụ thể để hỗ trợ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, miền núi trong vấn đề tiếp cận thông tin để đồng bào được là một “thực thể sống” chứ không chỉ là “tồn tại” - Nguồn: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-giam-sat.aspx?ItemID=63650
TS. Trương Hồng Hải
.
.