Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Chủ Nhật, 18/12/2022, 07:44 [GMT+7]
Bảo đảm phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là sự thể chế hóa kịp thời, đúng đắn mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng đề ra trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; đồng thời, xác định một cơ chế, quy trình hợp lý, khoa học cho việc lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải đặt trong tổng thể công cuộc đổi mới, trong quá trình thực hiện chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân; vừa bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đi đôi với đề cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. |
Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV xác định rõ: Công tác xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV là hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khuôn khổ pháp lý để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025, 12 định hướng phát triển đất nước, 6 nhiệm vụ trọng tâm đột phá chiến lược đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Để sớm đạt được mục tiêu trên, ngoài sự nỗ lực của các cơ quan nhà nước, đòi hỏi Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, mà trước hết là đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp Chính phủ chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 11/2022 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc |
1. Phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong thời gian qua
Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ đổi mới, nhất là từ khi có Nghị quyết 48 NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, quyết liệt với phương thức lãnh đạo phù hợp của Đảng đã có bước phát triển cả về lượng và chất, được thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, Đảng lãnh đạo bằng phương thức đề ra chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời, lãnh đạo việc thể chế hóa chủ trương, đường lối đó thành pháp luật. Đường lối, chủ trương của Đảng trên từng lĩnh vực được quy phạm hóa thành pháp luật, làm cho đường lối chủ trương của Đảng được triển khai thực hiện trên quy mô toàn xã hội, không chỉ bằng tính thuyết phục của đường lối mà còn cả bằng tính bắt buộc chung của pháp luật.
Trong lĩnh vực chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng là cơ sở xác lập thể chế chính trị và cơ chế vận hành, những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm bảo đảm sự hiệu quả, phù hợp với quy luật khách quan, trong đó có công tác xây dựng và tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng quyết định các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, chiến lược kinh tế - xã hội trung hạn và dài hạn, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm và 5 năm, các chính sách phát triển kinh tế quan trọng, những giải pháp đột phá..., đồng thời, lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Đó là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bảo đảm cho sự phát huy đầy đủ vai trò, tính tích cực của thị trường cũng như Nhà nước trong quản lý kinh tế, hạn chế tiêu cực, “lợi ích nhóm”, bảo đảm nguồn lực phân bổ hợp lý cho mục tiêu phát triển.
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Đảng đề ra quan điểm, đường lối, chính sách và lãnh đạo việc thực hiện xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội; xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển đồng thời là chủ thể phát triển; chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo; chú trọng nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ để giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại; phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và tinh thần; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội...
Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, Đảng quyết định đường lối xây dựng quốc phòng, an ninh, coi bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, trong đó, quân đội và công an là lực lượng nòng cốt; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mọi hoạt động của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương, mà thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc và tham gia xây dựng đất nước; xác định đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Đảng đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc phù hợp luật pháp quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Thông qua các tổ chức đảng, nhà nước, đoàn thể, các tổ chức xã hội, Đảng chỉ đạo tăng cường và mở rộng các quan hệ đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại.
Hai là, sự lãnh đạo của Đảng bằng phương thức ban hành Nghị quyết chuyên đề, tập trung định hướng quan điểm, nội dung xây dựng, ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 14/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 có thể xem là một phương thức lãnh đạo thể hiện tập trung nhất về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ năm 2005 đến nay. Bằng phương thức lãnh đạo mang tính chất chuyên đề này mà hệ thống pháp luật của nước ta từ pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị từng bước được xây dựng phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Pháp luật về quyền con người, quyền công dân ngày càng hoàn thiện và có sự phát triển về chất. Pháp luật về giáo dục đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số gia đình, trẻ em và chính sách xã hội được nhà nước quan tâm xây dựng một cách đồng bộ. Pháp luật về quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội được tăng cường đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường có sự phát triển cả về chất và lượng; đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Với tính chất là một Nghị quyết mang tính chất chiến lược về một lĩnh vực cụ thể là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong một thời gian xác định, nên đây là một phương thức lãnh đạo có tác động trực tiếp đến hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Với phương thức lãnh đạo này, hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hơn 20 năm qua có được định hướng chiến lược khoa học để hình thành chương trình, kế hoạch lập pháp hàng năm và cả nhiệm kỳ của Quốc hội. Theo đó, hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện đồng bộ, thống nhất. Pháp luật trên 6 lĩnh vực(1) mà Nghị quyết số 48- NQ/TW định hướng xây dựng và hoàn thiện, đến nay về cơ bản đã hình thành đồng bộ. Các đạo luật, bộ luật đã trở thành các hình thức pháp luật điều chỉnh trực tiếp đối với 6 lĩnh vực mà Nghị quyết đề ra. Hiến pháp năm 2013 là sự phản ánh tập trung và bao trùm của thành quả xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tinh thần và nội dung định hướng chỉ đạo của Nghị quyết số 48-NQ/TW.
Ba là, Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bằng phương thức lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Đa số các nước trên thế giới, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật thường được quy định trong Hiến pháp và trong quy chế hoạt động của Nghị viện. Ở nước ta, quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong một đạo luật và đã được nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Luật quy định các bước từ đưa sáng kiến pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét thông qua đến công bố luật với nguyên tắc xuyên suốt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, quan điểm, đường lối của Đảng được quán triệt và vận dụng ngay trong các công đoạn của quy trình ban hành một văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ, ngay trong bước đầu tiên của quy trình lập pháp là đưa sáng kiến pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành tại Điều 32, Khoản 2 đã quy định các chủ thể có thẩm quyền đề nghị xây dựng luật phải dựa trên các căn cứ được luật quy định trong đó căn cứ hàng đầu là: “Đường lối, chủ trương của Đảng”. Cũng trong bước đầu tiên này, việc thẩm định các đề nghị, kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh được Luật quy định: Nội dung thẩm định tập trung vào các vấn đề sau trong đó: “Sự phù hợp của nội dung chính sách với đường lối, chủ trương của Đảng” (Điểm b, Khoản 3, Điều 39).
Như vậy, ngay từ đầu vào của quy trình xây dựng pháp luật đã phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng. Trong các bước sau của quy trình, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định chặt chẽ để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đến cùng đối với một văn bản pháp luật. Có thể nói, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã có các quy định khá chặt chẽ về cơ chế bảo đảm đường lối, chủ trương của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật và bảo đảm các quy định pháp luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng được xem là yêu cầu trước tiên và có tính quyết định trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, do đó, đã được các cơ quan có thẩm quyền ban hành pháp luật tuân thủ và bảo đảm thực hiện trong toàn bộ quy trình từ đề nghị, kiến nghị, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và xem xét thông qua dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Bốn là, phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua Ban cán sự đảng Chính phủ, Đảng đoàn Quốc hội.
- Chính phủ là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc bảo đảm chất lượng đầu vào của hoạt động lập pháp. Bởi vì, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, hơn 90% các dự án luật do Chính phủ soạn thảo và trình Quốc hội. Hơn nữa, các dự án luật do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác, như Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hay Mặt trận Tổ quốc Việt Nam soạn thảo trình thì Chính phủ cũng phải thẩm tra và bảo đảm cơ sở vật chất cho việc thực hiện dự án Luật sau khi thông qua. Đồng thời, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền lập quy quan trọng nhất của Nhà nước. Vì thế, Đảng lãnh đạo Ban cán sự đảng Chính phủ trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Cụ thể là, Bộ Chính trị cần lãnh đạo chặt chẽ hoạt động lập pháp và hoạt động lập quy của Chính phủ ngay từ khâu dự kiến chương trình lập pháp, lập quy hàng năm đến khâu soạn thảo và trình cơ quan có thầm quyền xem xét thông qua.
- Thông qua Đảng đoàn Quốc hội, Bộ Chính trị lãnh đạo hoạt động lập pháp. Để giúp Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến và lập pháp, cần xác định rõ nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm, xây dựng chiến lược lập pháp trên cơ sở cương lĩnh đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, làm cơ sở để Quốc hội xây dựng chương trình xây dựng pháp luật. Xác định rõ chủ trương chính sách trên từng lĩnh vực và lãnh đạo Quốc hội thể chế hóa thành các văn bản pháp luật tương ứng. Đề ra phương hướng chỉ đạo đổi mới quy trình xây dựng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác xây dựng pháp luật trong giai đoạn mới.
Năm là, phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua các đảng viên là đại biểu Quốc hội và cán bộ, đảng viên tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đội ngũ cán bộ, đảng viên có trọng trách trong quy trình xây dựng pháp luật giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng của một dự án luật. Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ, đảng viên trực tiếp tham gia vào quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài việc Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy các cơ quan chủ chốt tham gia hoạt động xây dựng pháp luật sao cho mọi tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng; bên cạnh đó, Đảng cũng cần đặc biệt quan tâm đội ngũ các cán bộ, đảng viên trực tiếp soạn thảo, thẩm định và thẩm tra các dự án luật. Thực tiễn chỉ ra rằng, cấp ủy đảng các cấp có thẩm quyền trong hoạt động xây dựng pháp luật chưa coi trọng đúng mức việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Các cán bộ làm việc trong các vụ pháp chế của các bộ chưa được bố trí tương xứng với vai trò của công tác này. Đội ngũ này không đơn thuần chỉ biết về khoa học pháp lý, mà phải am hiểu sâu sắc chuyên môn, nghiệp vụ của ngành, bộ mình thì mới tham gia vào quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng. Vì vậy, để đổi mới, nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật phải không ngừng tăng cường phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với đội ngũ trực tiếp tham gia vào quy trình lập pháp, lập quy của Nhà nước.
2. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện phương thức lãnh đạo của đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Một là, đổi mới, không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng tham mưu chủ trương, đường lối của Đảng cả về nội dung và hình thức thể hiện nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật. Thực tiễn cuộc sống đòi hỏi Đảng không chỉ hoạch định đường lối xây dựng và phát triển đất nước trong thời gian lâu dài, quyết định những vấn đề cơ bản, hệ trọng của quốc gia, mà còn phải xử lý, giải quyết nhiều vấn đề bức xúc, cấp bách về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng… Do vậy, Đảng ta không ngừng bổ sung, điều chỉnh, phát triển đường lối, chính sách cho phù hợp với thực tiễn. Chỉ như vậy mới bảo đảm nền tảng và cơ sở chính trị cho hoạt động lập pháp. Kinh nghiệm cho thấy, ở lĩnh vực nào chưa có chủ trương của Đảng nhằm định hướng rõ về đường lối chiến lược thì ở lĩnh vực đó việc xây dựng pháp luật gặp nhiều lúng túng.
Hai là, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đặt ra mục tiêu, quan điểm và nội dung dài hạn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động lập pháp phải vận dụng một cách sáng tạo các tư tưởng và quan điểm chỉ đạo phù hợp với thực tiễn của từng thời điểm. Phải luôn bảo đảm việc quán triệt, cập nhật các tư tưởng và quan điểm chỉ đạo được quy định trong các nghị quyết của Đảng để kịp thời bổ sung, hoàn thiện, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, như: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân”; “Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật” (Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng)(2).
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật theo hướng giai đoạn xin ý kiến Bộ Chính trị về những vấn đề lớn, nhạy cảm, còn nhiều ý kiến khác nhau ở giai đoạn xây dựng và hình thành chính sách trong quá trình soạn thảo dự án luật, sau khi tập thể Chính phủ cho ý kiến về dự án luật trước khi trình Quốc hội xem xét thông qua. Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện pháp luật những năm qua cho thấy, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị đối với các dự án luật quan trọng, nhạy cảm ngay từ giai đoạn soạn thảo có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc nâng cao chất lượng của một dự án luật so với là chỉ cho ý kiến chỉ đạo ở khâu cuối cùng khi dự án luật đã chuyển sang Quốc hội.
Theo chúng tôi, trong hoạt động lập pháp thì ở công đoạn xây dựng và hình thành chính sách của dự án luật quan trọng và quyết định chất lượng của một dự án luật hơn là ở công đoạn xem xét thông qua trước Quốc hội. Bởi, ở công đoạn này, chính sách là nội dung quan trọng quyết định của một dự án luật xem như đã xây dựng xong chỉ còn là việc thẩm định, xem xét chính sách đó có hợp lòng dân và phù hợp thực tiễn không để luật sau khi thông qua có hiệu lực thực thi trong cuộc sống. Ở công đoạn này, không có điều kiện để hình thành chính sách mới. Vì vậy, sự chỉ đạo và lãnh đạo của Đảng ở công đoạn xây dựng và hình thành chính sách quốc gia trong một dự án luật quan trọng hơn nhiều khi xem xét, thẩm định để thông qua chính sách đó. Và nếu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng chặt chẽ ở giai đoạn soạn thảo một dự án luật thì chắc chắn chất lượng dự án luật đó sẽ được nâng lên, bảo đảm đúng định hướng của Đảng so với việc chỉ xin ý kiến về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau trước khi thông qua.
Bốn là, tăng cường lãnh đạo các tổ chức, cá nhân cán bộ, đảng viên tại Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ và các bộ, ngành ở Trung ương, Đảng đoàn các đoàn thể nhân dân ở cấp Trung ương, nhất là những cán bộ giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
(1) Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về: Tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị; bảo đảm quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân; dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hóa - thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và chính sách xã hội; quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; hội nhập quốc tế.
(2) Nguồn: https://baochinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-102288263.htm
|
TS. Đỗ Văn Nhật
(Ban Nội chính Trung ương)