Bài 1: Sự phát triển nhận thức, tư duy lý luận của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Thứ Bảy, 30/07/2022, 07:05 [GMT+7]
Nghiên cứu các quy định của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTN) được ban hành trong các nhiệm kỳ Đại hội X, XI, XII, XIII cho thấy: Đấu tranh PCTN đã trở thành tuyên ngôn, cam kết chính trị mạnh mẽ của Đảng. Thực hiện các chủ trương, chính sách nêu trên, đặc biệt là trong nhiệm kỳ Đại hội XII, với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, mà trực tiếp, thường xuyên là Ban Chỉ đạo do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban, công tác đấu tranh PCTN đã mang lại những những kết quả rất quan trọng, thực sự rõ nét trên thực tế, trở thành một điểm sáng, một dấu ấn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phát triển kinh tế - xã hội.
Tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là biểu hiện tập trung nhất của sự “tha hóa” quyền lực; quyền lực càng cao thì nguy cơ tham nhũng càng lớn. Lịch sử nhân loại cho thấy, các nhà nước dù ở chế độ chính trị nào, mô hình tổ chức ra sao, trình độ phát triển đến đâu cũng luôn phải đối mặt với tình trạng tham nhũng ở quy mô, mức độ khác nhau(1). Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện; trong quá trình đổi mới đất nước, nhiều vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước chưa có tiền lệ, phải tìm tòi, thử nghiệm…
Quang cảnh Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 ngày 30/6/2022 (ảnh Đặng Phước) |
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức và ngày càng xác định rõ hơn về nguy cơ, tác hại của tham nhũng, coi tham nhũng là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ XHCN. Do vậy, Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh PCTN, đã ban hành nhiều văn bản chuyên đề hoặc liên quan đến công tác PCTN, thể hiện sự phát triển về nhận thức và tư duy lý luận của Đảng, với nhiều bước đột phá, tạo tiền đề, cơ sở để công tác này đạt được những chuyển biến quan trọng, rõ nét trên thực tế.
Qua nghiên cứu hệ thống các chủ trương, chính sách của Đảng về đấu tranh PCTN trong thời kỳ đổi mới có thể nhận thấy những dấu mốc độ phá quan trọng sau:
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN được nâng lên tầm cao mới. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác PCTN. Tuy nhiên, trước thực trạng “cuộc đấu tranh PCTN, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(2). Đảng nhận thấy phải lãnh đạo cuộc đấu tranh PCTN ở tầm mức cao hơn, chặt chẽ, thường xuyên hơn. Trên cơ sở đó, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí. Đây có thể coi là bước đột phá mang tính mở đường, có ý nghĩa định hướng chiến lược, là điều kiện cần để tạo đà đẩy mạnh, đưa công tác PCTN trở thành xu thế không thể đảo ngược; từ đây, nhiều chủ trương, quan điểm mới, quan trọng về PCTN được hình thành và tổ chức thực hiện quyết liệt, hiệu quả trên thực tế.
Bước phát triển về nhận thức này chính là sự cam kết rõ ràng của Đảng với cán bộ, đảng viên và nhân với một quyết tâm chính trị cao “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” để xây dựng Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là người đại diện chân chính, trung thành của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Các quan điểm, chủ trương, giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đề ra đã được triển khai thực hiện quyết liệt, đạt hiệu quả rõ rệt, thể hiện sự nhất quán giữa nhận thức và hành động, giữa nói và làm. Qua nhiều lần sơ kết, tổng kết đã khẳng định, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đến nay vẫn còn nguyên giá trị lãnh đạo, chỉ đạo và ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
Thứ hai, cơ chế, cách thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN được đổi mới. Từ đột phá về nhận thức cần thiết phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đòi hỏi phải đổi mới, đột phá trên tất cả các mặt công tác đấu tranh PCTN, trước hết là tư duy về cách làm để trả lời câu hỏi chủ trương, đường lối đã rõ, nhận thức đã chín, tư tưởng đã thông, cách làm thế nào cho hiệu quả nhất. Thực tiễn cho thấy, Đảng đã lựa khâu đột phá ở việc thiết lập và thường xuyên củng cố, kiện toàn cơ quan chuyên trách đủ mạnh để tham mưu, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hòa phối hợp công tác PCTN một cách tập trung, thống nhất, thường xuyên, có hiệu lực, hiệu quả.
Đánh dấu cho bước đột phá này là việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (Ban Chỉ đạo) trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban và lập lại Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy(3). Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo(4), Ban Nội chính Trung ương(5) và quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của các thiết chế này(6).
Bước đột phá này có thể coi là điều kiện đủ để công tác PCTN được tiến hành không ngừng, không nghỉ, đồng bộ, đạt bước tiến mạnh, với nhiều kết quả rất quan trọng, toàn diện, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng, đánh giá cao, cộng đồng quốc tế ghi nhận(7). Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể, quyết liệt của Ban Chỉ đạo mà trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng ban, Ban Chỉ đạo hoạt động ngày càng nền nếp, bài bản, nhịp nhàng, khoa học, “đúng vai thuộc bài”, thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy, là “nhạc trưởng”, “tổng chỉ huy” chỉ đạo, điều hòa phối hợp các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành, cơ quan chức năng và các địa phương trong công tác PCTN.
Ban Nội chính Trung ương với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách lớn về PCTN; đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã chủ động, bản lĩnh, sáng tạo, kiên quyết, kiên trì trong tham mưu chỉ đạo công tác PCTN, nhất là trong tham mưu chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng. Những kết quả đạt được trong công tác PCTN thời gian qua đã khẳng định việc lập Ban Chỉ đạo trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban, lập lại Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn đấu tranh PCTN ở nước ta.
Trên cơ sở mô hình tổ chức và những kinh nghiệm thành công trong hoạt động của Ban Chỉ đạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (tại Hội nghị lần thứ năm) đã quyết định chủ trương lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTN, tiêu cực do đồng chí Bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương làm Trưởng ban, nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nâng cao hiệu quả, tạo chuyển biến rõ nét hơn nữa trong đấu tranh PCTN ở địa phương, cơ sở, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong hình hình mới.
Thứ ba, hình thành hệ thống các quan điểm, chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ trong phát hiện, xử lý tham nhũng. Mặc dù nhận thức rõ sự cần thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTN, nhưng quá trình lãnh đạo, chỉ đạo Đảng không chủ quan, nóng vội, đảm bảo việc xử lý biện chứng, hài hòa, khoa học giữa “xây” và “chống” với quan điểm “phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách”(8). Trên cơ sở đó, nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp về phát hiện, xử lý tham nhũng được hình thành, không chỉ tạo bước đột phá trong nhận thức lý luận mà còn tạo đột phá trong thực tiễn PCTN, góp phần hiện thực hóa tuyên ngôn, cam kết chính trị của Đảng kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng. Các chủ trương, quan điểm, giải pháp mới về phát hiện, xử lý tham nhũng có thể được khái quát như sau:
(1) Phát hiện sớm, xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí(9). Có vụ việc thì phải xác minh làm rõ(10). Tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó; bất kể người có hành vi tham nhũng là ai, đã có dấu hiệu tội phạm phải khởi tố, điều tra; đã kết luận có hành vi phạm tội thì phải truy tố theo quy định của pháp luật, xét xử; những vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và Nhà nước(11). Tài liệu chắc đến đâu xử lý đến đó, sau đó điều tra, xử lý tiếp nhằm tạo sự lan tỏa và chuyển biến tích cực trong phát hiện, xử lý tham nhũng(12).
(2) Nói đi đôi với làm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào(13).
(3) Việc đánh giá, nhìn nhận về các sai phạm cũng cần phải đặt trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể có quan điểm xử lý khách quan, phù hợp(14).
(4) Các cơ quan chức năng trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thi hành án, nếu phát hiện dấu hiệu tội phạm thì phải kịp thời chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều tra để thụ lý, điều tra, xử lý theo pháp luật, không chờ kết thúc quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, thi hành án. Trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nếu phát hiện vi phạm liên quan đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý phải báo cáo ngay cho Thường trực Ban Chỉ đạo để kịp thời chỉ đạo xử lý; đồng thời, chuyển hồ sơ, tài liệu liên quan đến Ủy ban Kiểm tra Trung ương để xem xét xử lý theo quy định của Đảng. Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra, xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong các vụ việc, vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo(15).
(5) Tiến hành đồng bộ giữa kỷ luật Đảng, kỷ luật hành chính của Nhà nước, đoàn thể và xử lý hình sự. Kỷ luật của Đảng phải thực hiện trước, là tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính của Nhà nước, đoàn thể và xử lý hình sự. Việc xử lý phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng; đồng thời, bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung(16). Kỷ luật một người để cứu muôn người(17).
(6) Chống tham nhũng ngay trong chính các cơ quan, đơn vị chức năng có nhiệm vụ trực tiếp thực hiện công tác phát hiện, xử lý tham nhũng(18).
(7) Phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có; kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên, tạm giữ tài sản, phong toả tài khoản và xử lý tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả trong các vụ án tham nhũng.
Thứ tư, chủ trương gắn PCTN với phòng, chống tiêu cực, trọng tâm là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị, được đánh dấu bằng việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 32-QĐ/TW, ngày 16/9/2021 mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo để chỉ đạo phòng, chống cả tham nhũng và tiêu cực. Đây là bước tiến mới, đưa công tác PCTN đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ hơn giữa phòng ngừa với đấu tranh chống tham nhũng theo quan điểm đã được đề ra từ Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X). Bước đột phá này xuất phát từ việc Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa tham nhũng với suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tham nhũng là biểu hiện tập trung, rõ nét và trầm trọng nhất của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; nguyên nhân cơ bản của tình trạng tham nhũng là do một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống(19). Để PCTN hiệu quả, tất yếu, khách quan phải gắn PCTN với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; phòng, chống suy thoái chính là ngăn chặn từ xa mầm mống của tham nhũng, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: “Không chỉ đấu tranh PCTN trong lĩnh vực kinh tế, mà quan trọng hơn phải chống tiêu cực trong cả lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Hai cái này nó có liên quan đến nhau, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống thì mới dẫn đến tham nhũng, đây mới là cái gốc, cái cơ bản cần phải chống”(20).
(1) Mặc dù là quốc gia phát triển, nhưng theo đánh giá chỉ số CPI năm 2017 của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), Hàn Quốc được xếp hạng là 1 trong 10 quốc gia tham nhũng nhất. Thời gian qua, đã có 05 đời Tổng thống của nước này bị đưa ra xét xử vì tham nhũng, gần đây nhất là cựu Tổng thống Park Geun Hye (năm 2017). (Theo phaply.net.vn, ngày 03/10/2018). Tại Hoa Kỳ, tình hình tham nhũng vẫn diễn ra ở nhiều bang: Theo đánh giá của Đại học Illinois-Chicago (UIC), mỗi năm kinh tế bang Illinois bị thiệt hại ít nhất 550 triệu USD vì tham nhũng; Năm 2010 xảy ra một sự kiện chấn động tại thành phố Bell thuộc Los Angeles khi các quan chức của thành phố bị phát hiện có mức thu nhập cao bất thường. Năm 2021, Ủy ban Độc lập Chống tham nhũng Hồng Kông (ICAC) cho biết, đã nhận được 2.264 đơn khiếu nại về tham nhũng, tăng gần 1/5 so với năm 2020 và tương tự như thống kê năm 2019…
(2) Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006.
(3) Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí.
(4) Quyết định số 162-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị.
(5) Quyết định số 158-QĐ/TW, ngày 28//12/2012 của Bộ Chính trị.
(6) Quyết định số 163-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính trị; Quyết định số 159-QĐ/TW, ngày 28/12/2012 của Bộ Chính trị.
(7) Báo cáo số 238-BC/BCĐTW, ngày 22/12/2020 của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN về Tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thời gian tới.
(8) Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí.
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG-ST, H.2021, t.2, tr.252.
(10) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc công tác PCTN năm 2014.
(11) Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí…
(12) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN tại Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo tháng 4/2016.
(13) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020 (ngày 12/12/2020).
(14) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc công tác PCTN năm 2018.
(15) Kết luận số 05-KL/TW, ngày 03/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW của Bộ Chính trị trong công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
(16) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác PCTN giai đoạn 2013-2020 (ngày 12/12/2020).
(17) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.
(18) Phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị toàn quốc công tác PCTN năm 2014, Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (ngày 15/9/2021); Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí…
(19) Theo báo cáo của các cấp ủy, tổ chức đảng, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, có 87.210 đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có hơn 49.400 đảng viên bị xử lý kỷ luật do liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống (chiếm 56,64%); với hơn 3.260 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; hơn 5.200 cán bộ, đảng viên bị xử lý hình sự (tăng 18,48% so với nhiệm kỳ XI).
(20) Trích phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN ngày 18/3/2021.
|
(còn nữa: Bài 2: Một số vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ thực tiễn xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực thời gian qua)
Lê Hạnh - Văn Dũng
(Ban Nội chính Trung ương)