Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế theo Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị

Thứ Bảy, 13/02/2016, 06:41 [GMT+7]
    Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế là một trong 06 định hướng quan trọng của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam (theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị), với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế đã cơ bản hoàn thiện, được bổ sung nhiều về số lượng, chất lượng, điều chỉnh khá toàn diện các quan hệ dân sự, kinh tế, tạo ra khung pháp lý quan trọng cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường, cơ bản đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
 
    1. Một số kết quả đạt được
 
    Trong 10 năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành mới, sửa đổi, bổ sung khoảng 80 luật, pháp lệnh trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, chiếm khoảng 30% tổng số luật, pháp lệnh được ban hành trong giai đoạn này. Trong đó, nổi lên ở những điểm sau:
 
    Thứ nhất, pháp luật về sở hữu, về quyền tự do kinh doanh Pháp luật đã dần xác định rõ các loại hình thức sở hữu(1) và không phân biệt đối xử giữa các chế độ và hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Hiến pháp năm 2013 và hàng loạt các luật được ban hành nhằm cụ thể hóa Hiến pháp trong lĩnh vực này đã thể hiện tư tưởng chủ đạo: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân, hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế; xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp; bảo đảm quyền tự do hoạt động đầu tư, thương mại, quyền thỏa thuận, ký kết, giao dịch và thực thi hợp đồng; cơ chế cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, khuyến khích và bảo đảm đầu tư, xóa dần ranh giới giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngoài; giảm dần sự can thiệp bằng biện pháp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế; dần tháo gỡ các vướng mắc, rào cản trong sản xuất, kinh doanh, phát triển lành mạnh thị trường.
 
    Pháp luật về hợp đồng đã được hoàn thiện theo hướng tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không trái với đạo đức xã hội, không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương mại quốc tế. Bộ luật dân sự năm 2005 được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp đồng, các loại hợp đồng, về hình thức giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chấm dứt hợp đồng…, đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng, hạn chế sự can thiệp của các cơ quan công quyền vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.
 
    Pháp luật về đầu tư đã quy định thống nhất áp dụng đối với đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và làm tăng tính minh bạch môi trường đầu tư của Việt Nam. Luật đầu tư năm 2014 thay thế Luật đầu tư năm 2005 đã tạo lập môi trường kinh doanh cởi mở hơn, phạm vi điều chỉnh rõ ràng hơn theo hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh của công dân trên cơ sở những ngành nghề mà Luật không cấm.
 
    Pháp luật về doanh nghiệp với việc ban hành Luật doanh nghiệp năm 2014 đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng, như đổi mới đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, mô hình quản trị công ty cổ phần, đổi mới trong quản lý doanh nghiệp nhà nước...
 
    Pháp luật về đấu thầu đã đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu; bổ sung phương pháp đánh giá mới nhằm đa dạng hóa phương pháp đánh giá để phù hợp với từng loại hình và quy mô của gói thầu, đồng thời khắc phục tình trạng bỏ thầu giá thấp nhưng không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu…
 
    Pháp luật về hải quan đã có những đột phá trong việc thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục hải quan, từ phương thức truyền thống, bán điện tử sang phương thức điện tử; đẩy mạnh thực thi các giải pháp đơn giản hóa thủ tục hành chính về hải quan. Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức hải quan; nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý hải quan; tăng cường phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, gian lận thương mại…
 
    Pháp luật về cạnh tranh được ban hành hoặc sửa đổi trong giai đoạn này cũng đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát loại bỏ những hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh,… góp phần tạo lập và duy trì một môi trường kinh doanh bình đẳng. Pháp luật phá sản với việc ban hành Luật phá sản năm 2014 thay thế Luật phá sản năm 2004 đã đưa ra những cơ hội thực tiễn cho việc duy trì hoặc tổ chức lại doanh nghiệp, phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp; đưa ra các quy trình, thủ tục giải quyết việc phá sản doanh nghiệp đơn giản, nhanh gọn hơn; góp phần hạn chế đến thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước các rủi ro xảy ra.
 
    Thứ hai, xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các loại thị trường
 
    Pháp luật về các yếu tố thị trường và các loại thị trường được xây dựng ngày càng đồng bộ hơn, phù hợp với các quan hệ cung - cầu, cạnh tranh lành mạnh, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả các công cụ chính sách vĩ mô theo các nguyên tắc của thị trường. Đối với thị trường hàng hóa dịch vụ, hàng loạt đạo luật đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung để bảo đảm môi trường pháp lý thông thoáng, tự do kinh doanh, phát triển lành mạnh, bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như quyền lợi người tiêu dùng(2). Đối với thị trường bất động sản, thể chế cho việc hình thành và phát triển thị trường bất động sản, đã góp phần cải cách thủ tục hành chính về quy hoạch, quản lý sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất; đưa công tác quản lý, sử dụng đất đai vào nền nếp; thị trường bất động sản cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài đầu tư ở Việt Nam từng bước được mở rộng. Đối với thị trường lao động, Bộ luật lao động được sửa đổi nhiều lần qua các năm (2002, 2006, 2007, 2012); Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006; Luật việc làm năm 2013 đã tạo hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh theo hướng đa dạng hóa các hình thức tạo việc làm, cơ hội tìm việc làm, khuyến khích mở rộng thị trường lao động có hàm lượng chất xám cao; quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động được bảo đảm tốt hơn; hoàn thiện các tiêu chuẩn lao động, thiết lập quan hệ lao động giữa các chủ thể, điều chỉnh các hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, tiền lương, bảo hiểm, thời gian làm việc, kỷ luật lao động..., đồng thời, nội luật hóa các quy định trong các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đối với thị trường khoa học - công nghệ, Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cùng với pháp luật về khoa học và công nghệ góp phần hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ. Phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được mở rộng phù hợp với Hiệp định TRIPS của WTO về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với thị trường tài chính, khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực kinh doanh tiền tệ - tín dụng cơ bản được hoàn thiện(3), tạo môi trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm; khuyến khích cạnh tranh trong các hoạt động này trên nguyên tắc an toàn hệ thống.
 
    Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về tài chính công
 
    Pháp luật trong lĩnh vực tài chính công đã đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý ngân sách, cải cách hành chính; bảo đảm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xử lý vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách, vốn và tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng tài nguyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh; định hướng huy động, sử dụng vốn vay; tổ chức huy động, phân bổ sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính; bảo đảm cơ chế đồng bộ cho quản lý, sử dụng nguồn lực dự trữ quốc gia hiệu quả. Bên cạnh đó, hành lang pháp lý về quyền tự chủ đối với cơ quan nhà nước; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập cũng đã được xác lập đầy đủ, đồng bộ; khắc phục tình trạng ỷ lại vào ngân sách nhà nước, thúc đẩy cải cách hành chính.
 
    Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát huy vai trò nòng cốt của kinh tế nhà nước, thực hiện công khai, minh bạch và giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trong đầu tư và quản lý vốn đã đầu tư của Nhà nước vào doanh nghiệp.
 
    Luật đầu tư công năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hoạt động đầu tư và sử dụng vốn đầu tư công; chống thất thoát, lãng phí; bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý đầu tư công.
 
    Pháp luật về thuế, phí, lệ phí và quản lý thuế(4) đã được ban hành theo đúng lộ trình, vừa bảo đảm yêu cầu về hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, vừa đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống thuế theo hướng mở rộng các đối tượng chịu thuế, bao quát các nguồn thu ngân sách nhà nước, đơn giản hóa thủ tục hành chính. 
 
    Thứ tư, hình thành đồng bộ pháp luật về các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật .
 
    Pháp luật trong lĩnh vực xây dựng, giao thông vận tải, điện lực cũng đã được hình thành khá đồng bộ(5); thể hiện phân cấp mạnh mẽ giữa Trung ương và địa phương và làm rõ trách nhiệm của các cấp, các ngành và các chủ thể tham gia, tạo động lực thúc đẩy các hoạt động đầu tư, phát triển thị trường xây dựng và thị trường bất động sản với quy mô ngày càng rộng lớn, đa dạng; có các chính sách thông thoáng, đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ giao thông công cộng; linh hoạt trong thu hút nguồn vốn đầu tư từ mọi nguồn lực xã hội, tạo lập hệ thống giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông khá đồng bộ, có những đổi thay rõ rệt so với những năm trước đây; chính sách phát triển điện lực của Nhà nước đã thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động phát, phân phối điện, xây dựng thị trường điện cạnh tranh; hoạt động điện lực và nhiệm vụ quản lý sản xuất kinh doanh điện được phân định, quản lý và chịu sự điều tiết của Nhà nước.
 
    Pháp luật về nông nghiệp - nông thôn đã tập trung chủ yếu hướng tới điều chỉnh các lĩnh vực về đất đai, đầu tư, sản xuất nông nghiệp, thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão; bảo vệ và phát triển rừng, thủy sản, thương mại nông lâm thủy sản, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; khuyến nông, khuyến ngư và phát triển ngành nghề nông thôn(6) góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn; đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tập thể, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; cải thiện đời sống, vật chất, tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn phù hợp với các tiêu chí của mô hình Nông thôn mới.
 
    Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường Pháp luật về tài nguyên và môi trường(7) đã kịp thời điều chỉnh nhiều vấn đề mới phát sinh như ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường, sinh thái với các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh, có tính đột phá; chấn chỉnh các hoạt động khai thác khoáng sản, tài nguyên nước không phù hợp với quy định của pháp luật; quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau đầu tư vốn, kỹ thuật công nghệ, thiết bị vào lĩnh vực hoạt động khai thác tài nguyên, khoáng sản; gắn hoạt động sản xuất, kinh doanh tài nguyên, khoáng sản với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương.
 
    2. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
 
    Nhìn chung, pháp luật trong lĩnh vực dân sự, kinh tế đã cơ bản hoàn thiện, tạo lập khuôn khổ pháp lý quan trọng cho vận hành của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đối phó linh hoạt với các thách thức, phục vụ có hiệu quả công cuộc đổi mới và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về dân sự, kinh tế vẫn chưa thực sự đồng bộ, chất lượng chưa cao, thiếu ổn định và tính dự báo thấp; trong lĩnh vực này vẫn còn tình trạng luật ban hành phải đợi Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành làm cho luật chậm đi vào cuộc sống, giảm hiệu lực của hệ thống pháp luật; vẫn còn có sự chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản luật cùng điều chỉnh một vấn đề làm cho việc thi hành gặp nhiều khó khăn(8), đáng lưu ý là:
 
    - Về chế độ sở hữu, sở hữu toàn dân còn nhiều điểm chưa rõ về mặt pháp lý, đặc biệt là đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn nhà nước; chưa minh định rõ sở hữu hỗn hợp với nhiều thành phần trong nền kinh tế.
 
    - Chưa phân định rõ ràng, rành mạch giữa quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh (nhất là cấp bộ, ngành); thể chế chưa đầy đủ các quyền tự do kinh doanh; môi trường kinh doanh chưa thật sự bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; doanh nghiệp gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường còn gặp nhiều vướng mắc; giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa tuân theo quy luật kinh tế thị trường; quản trị doanh nghiệp còn yếu kém, chưa theo kịp chuẩn mực quốc tế...
 
    - Tình trạng luật khung còn nhiều; văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành trong lĩnh vực này còn chậm được ban hành hoặc không đầy đủ, có không ít quy định thiếu tính thực tế. Những vướng mắc về thủ tục hành chính - cả trong thể chế lẫn trong thực tiễn thi hành, đang là rào cản lớn đối với quá trình gia nhập thị trường, vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, làm giảm đáng kể sức cạnh tranh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước của Việt Nam.
 
    - Chưa ưu tiên xây dựng thể chế về sử dụng vốn nhà nước vào đầu tư kinh doanh, về đầu tư công, đặc biệt là thể chế về kiểm tra, giám sát hiệu quả sử dụng vốn nhà nước; chưa xóa bỏ triệt để cơ chế xin cho trong quản lý, phân bổ vốn nhà nước và độc quyền kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
 
    - Pháp luật về tài nguyên môi trường còn phức tạp, nhiều tầng nấc, thậm chí mâu thuẫn; chưa đồng bộ, các chế tài xử lý chưa nghiêm, thiếu thiết chế thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường quốc gia và thực hiện các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế về môi trường.
 
    - Pháp luật về hình thành và hoạt động của các thị trường chưa đồng bộ. Việt Nam chưa tạo ra được thị trường theo đúng nghĩa, nhất là thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ...
 
    3. Một số đề xuất, giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế trong những năm tới
 
    Trên cơ sở kết quả tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, để khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực tiễn, đồng thời căn cứ vào Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 và các phương hướng, nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020 trong các văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng để đề ra các định hướng, nhiệm vụ xây dựng pháp luật cho giai đoạn 20162020, trong đó cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế như sau:
 
    - Tiếp tục cụ thể hóa các quy định về các quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân trong Hiến pháp năm 2013 vào các luật chuyên ngành. Bảo đảm minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính nhà nước và dịch vụ công để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Nâng cao năng lực các thiết chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế trong bảo vệ quyền tài sản.
 
    - Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về định giá, chuyển nhượng các loại tài sản đặc thù (đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản) và tài sản vô hình, tài sản trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu.
 
    - Hoàn thiện pháp luật về gia nhập thị trường và rút khỏi thị trường theo hướng bảo đảm quyền tự do kinh doanh với nguyên tắc công dân được kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm; bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với các chủ thể thị trường; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp, thủ tục đầu tư; tạo cơ chế pháp lý thuận lợi, đơn giản cho việc tuyên bố phá sản, tổ chức lại doanh nghiệp.
 
    - Nghiên cứu xây dựng Luật về cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước theo hướng doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích; xóa bỏ cơ chế phân tán chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước cho các bộ, UBND đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp.
 
    - Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các thị trường, bao gồm: Thực hiện đa dạng hóa thị trường hàng hóa, dịch vụ theo hướng hiện đại, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về thị trường bất động sản, phù hợp với quy luật cung - cầu nhằm khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực từ đất đai và tài sản, kết cấu hạ tầng trên đất; tạo môi trường pháp lý cho sự hình thành, phát triển lành mạnh thị trường lao động theo hướng đa dạng hóa các hình thức tìm việc làm, giới thiệu việc làm và tuyển chọn lao động; khuyến khích mở rộng thị trường lao động sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; tiếp tục phát triển thị trường tài chính - tiền tệ theo hướng hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý cho việc áp dụng các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn pháp lý trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng và phân bổ nguồn vốn; hoàn thiện pháp luật về thị trường chứng khoán để trở thành kênh huy động vốn và đầu tư gián tiếp an toàn, hiệu quả; hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm cho phù hợp với thực tiễn và các cam kết quốc tế; thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, bảo đảm sự công khai, minh bạch đối với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; bảo đảm tối đa cạnh tranh lành mạnh, hạn chế hiệu quả những hành vi lũng đoạn thị trường.
 
    - Hoàn thiện pháp luật về các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm thuế, quy hoạch, các tiêu chuẩn về chất lượng, quản lý giá và các công cụ hỗ trợ quản lý vĩ mô như thống kê, đăng ký giao dịch, đăng ký tài sản, các tiêu chuẩn và quy chuẩn hướng đến kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội, sự liên kết tổng thể, ổn định, đơn giản và minh bạch, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, chống thất thoát, lãng phí các nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và các cam kết quốc tế. 
 
    - Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về đặc khu kinh tế để tạo cơ sở pháp lý phát triển mô hình khu công nghiệp, khu kinh tế mới cho phù hợp với thực tiễn và chuẩn mực quốc tế; có cơ chế, chính sách đặc thù hoặc thí điểm về phát triển kinh tế cho một số đô thị, nông thôn và hải đảo để tạo ra những đột phá cho thời gian tới. - Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đơn giản hóa các thủ tục hành chính, công khai minh bạch hóa liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm bớt các rào cản trong hoạt động của doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tránh tình trạng lợi dụng những ưu đãi về chính sách thuế, đất đai, nhân công rẻ để chuyển giá, trốn thuế như thời gian qua và có cơ chế bảo vệ quyền lợi cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp này.
    - Hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vệ sinh an toàn thực phẩm theo hướng Nhà nước can thiệp hiệu quả hơn nhằm giảm thiểu thông tin bất cân xứng, bảo vệ người yếu thế trong cạnh tranh (ví dụ người mua căn hộ, người tiêu dùng); hạn chế những yếu tố mặt trái của thị trường; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên công cộng.
(1) Các hình thức sở hữu là:(1) Sở hữu toàn dân; (2) Sở hữu tập thể; (3) Sở hữu tư nhân; (4) Sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài; (5) Sở hữu hỗn hợp
(2) Luật thương mại năm 2005, Luật giao dịch điện tử năm 2005, Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa năm 2007, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật an toàn thực phẩm năm 2010, Luật giá năm 2012…
(3) Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013); Luật chứng khoán 2006; Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi năm 2010)…
(4) Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi năm năm 2013); Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi năm 2012 và 2014); Luật thuế giá trị gia tăng 2008 (sửa đổi năm 2013 và 2014); Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2008; Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005; Luật thuế bảo vệ môi trường được ban hành 2010; Luật thuế tài nguyên được ban hành 2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 5 Luật thuế; Luật quản lý thuế 2006 (sửa đổi năm 2012).
(5) Luật nhà ở năm 2005 (sửa đổi năm 2009 và năm 2014), Luật kinh doanh bất động sản năm 2006, Luật quy hoạch đô thị năm 2009, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều liên quan đến đầu tư xây dựng cơ
bản năm 2009; Luật xây dựng năm 2014, Luật kinh doanh bất động sản năm 2014...
(6) Luật đất đai (sửa đổi), Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đầu tư công, Luật hợp tác xã (sửa đổi), Luật ngân sách nhà nước, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật thủy sản, Luật tài nguyên nước, Luật đê điều, Luật phòng chống thiên tai, Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Pháp lệnh thú y, Pháp lệnh bảo vệ và khai thác công trình thủy lợi, Pháp lệnh giống cây trồng, Pháp lệnh giống vật nuôi,…và các văn bản hướng dẫn thi hành.
(7) Như Luật bảo vệ môi trường năm 2014 (thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 2005); Luật đa dạng sinh học năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dầu khí (2009), Luật khoáng sản năm 2010 (thay thế Luật khoáng sản năm 1996), Luật tài nguyên nước năm 2012 (thay thế Luật tài nguyên nước 1998), Luật tài nguyên môi trường biển và hải đảo năm 2015…
(8) Mâu thuẫn, chồng chéo giữa pháp luật về đất đai và hệ thống pháp luật có liên quan (như Luật nhà ở, Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước….) hoặc mâu thuẫn giữa các quy định liên quan đến lãi suất ngân hàng trong pháp luật về thương mại, dân sự, bảo hiểm, doanh nghiệp.

ThS. Nguyễn Văn Trường
(Ban Nội chính Trung ương)

;
.