Ngày làm việc thứ hai phiên xử Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm

Thứ Tư, 10/01/2018, 14:14 [GMT+7]
    Sáng 9-1, phiên tòa xét xử bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm được tiếp tục với phần thẩm vấn các bị cáo về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra trong quá trình thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2.
 
    Trong phần thẩm vấn bị cáo Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị PVC) sáng 9-1, khi được Hội đồng xét xử hỏi về việc tự nhận thấy có sai sót gì trong việc ký Hợp đồng EPC số 33 của Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã thừa nhận không đọc kỹ những nội dung chính của Hợp đồng số 33 này mà đã chỉ đạo bị cáo Vũ Đức Thuận (nguyên Tổng Giám đốc PVC) ký.
 
    Khai tại tòa, bị cáo Trịnh Xuân Thanh cho biết theo các báo cáo kiểm toán chính thống, tình hình tài chính của PVC thời điểm năm 2011 vẫn có lãi. Tuy nhiên, lãi bao nhiêu thì bị cáo không nhớ, nhưng cũng đã có tiềm ẩn nguy cơ thua lỗ. Sự chênh lệch giữa vốn đầu tư cho các công trình khác, các công ty con, so với vốn điều lệ là rất lớn.
 
    Theo bị cáo Thanh, lúc này PVC là 1 trong 5 mũi nhọn của PVN, thực hiện các dịch vụ thi công xây lắp ở trên bờ. Do đó, khi thực hiện tái cơ cấu theo chủ trương của Chính phủ, PVN đã chuyển một số công ty khác về PVC. PVC lúc đó chỉ vay vốn để sản xuất kinh doanh, nhưng khi các công ty con này chuyển về, PVC đã phải vay vốn để có tiền góp vốn vào các công ty con.
 
    Giải thích lý do vì sao PVN chỉ định thầu cho PVC, Trịnh Xuân Thanh khai theo Luật Đấu thầu không thể chỉ định thầu cho các công ty nước ngoài. Khi PVN chỉ định thực hiện gói thầu EPC số 33, bị cáo và PVC rất mừng, đồng thời đã liên hệ với các đơn vị đối tác tư vấn nước ngoài.
 
    Mặc dù biết năng lực tài chính của PVC lúc này có vấn đề, nhưng bị cáo Trịnh Xuân Thanh cho rằng Việt Nam chỉ có PVC có đủ khả năng thực hiện tổng thầu này thôi. “Dựa vào kinh nghiệm đã từng hợp tác thành công với Lilama (Tổng Công ty lắp máy Việt Nam) ở nhiều công trình khác, anh Thăng và bị cáo hy vọng sẽ xây dựng một đơn vị tốt, làm lợi cho Nhà nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao năng lực kinh nghiệm cho PVC,” bị cáo Trịnh Xuân Thanh khai.
 
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử
    Về quá trình chuẩn bị hồ sơ thủ tục cho Hợp đồng EPC số 33, Trịnh Xuân Thanh khai, Hội đồng quản trị đã giao Tổng Giám đốc Vũ Đức Thuận chuẩn bị các thủ tục, hồ sơ. Vì trong thời gian ngắn nên việc chuẩn bị hồ sơ không thể kịp, đặc biệt là hồ sơ đề xuất. Trong khi đó, lãnh đạo PVN bắt buộc khởi công dự án đúng kế hoạch, thiếu giấy tờ thì cho nợ.
 
    Tuy nhiên, bị cáo Thanh vẫn cho làm văn bản báo cáo, nói rõ nhanh nhất là tháng 5, Hợp đồng EPC số 33 mới hoàn thiện đầy đủ hồ sơ. Trước sức ép từ PVN, bị cáo vẫn chỉ đạo triển khai dự án. Bị cáo Trịnh Xuân Thanh nhận trách nhiệm trong việc Hợp đồng EPC số 33 không có phụ lục và cho biết chỉ đọc tờ trình thể hiện giá trị hợp đồng mà không đọc hồ sơ hợp đồng.
 
    Về vấn đề xin tiền tạm ứng của PVN, bị cáo Trịnh Xuân Thanh cho rằng mình không liên quan bởi đây là thẩm quyền của Tổng Giám đốc, không cần báo cáo, không cần thông qua Chủ tịch Hội đồng quản trị.
 
    Bị cáo Trịnh Xuân Thanh khai việc chi tiêu khoản tiền tạm ứng đó thuộc thẩm quyền của Ban giám đốc PVC và Kế toán trưởng có trách nhiệm báo cáo với Tổng Giám đốc mà không phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng quản trị.
 
    “Sau này bị cáo có phát hiện ra việc chi tiêu đó, khoảng tháng 9-2011 và có yêu cầu, bị cáo cũng trực tiếp báo cáo PVN. Bị cáo nhớ là trong các nghị quyết của PVC đều ghi phải góp vốn bằng tiền vay hoặc tiền sẵn có nên các khoản chi sai đó là trách nhiệm của Kế toán trưởng. Việc góp vốn phải có sự thông qua của Hội đồng quản trị, phải có quyết định, nhưng dòng tiền dùng để góp vốn phải đúng. Lúc đó dù khó khăn về tài chính nhưng PVC lúc nào cũng vay được tiền, ngân hàng sẵn sàng cho vay,” Trịnh Xuân Thanh khai.
 
    Đối chất tại tòa, bị cáo Phạm Tiến Đạt, nguyên Kế toán trưởng PVC khai đã báo cáo Trịnh Xuân Thanh và tại các cuộc họp giao ban của Tổng Công ty về việc PVC mất cân đối giữa các nguồn vốn, phải dùng tiền tạm ứng cho dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2 vào các việc khác. Tuy nhiên, bị cáo Trịnh Xuân Thanh không có ý kiến gì.
 
    Bị cáo Phạm Tiến Đạt cũng cho biết, không có nguyên tắc nào dùng tiền đi vay để đầu tư góp vốn. Vì vậy, không còn cách nào ngoài việc chiếm dụng nguồn tiền tạm ứng từ PVN.
 
    Bị cáo Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC) khai tại tòa, theo chỉ đạo của bị cáo Trịnh Xuân Thanh và dựa vào Hợp đồng EPC số 33, bị cáo đã ký các văn bản đề nghị PVN tạm ứng. Việc sử dụng số tiền tạm ứng là theo chỉ đạo của Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc. Các khoản chi này đều đầy đủ chứng từ, còn mục đích chi đúng hay không thì do vào thời điểm đó, nhận thức của bị cáo chưa sâu sắc, đầy đủ. Bị cáo chỉ nghĩ rằng có thể sử dụng tiền nhàn rỗi để dùng vào mục đích khác theo chỉ đạo của cấp trên.
 
    Bị cáo Tiến khẳng định việc chi tiêu nguồn tiền tạm ứng này phải tuân theo sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị. Nếu không có sự thông qua của Hội đồng quản trị thì không thể chi tiền vì thủ tục chi tiền cần rất nhiều chữ ký.
 
    Trong phần trả lời thẩm vấn Hội đồng xét xử, bị cáo Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN) cho biết, việc PVN chỉ định PVC làm tổng thầu của Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 xuất phát từ chủ trương thực hiện chiến lược phát triển Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam trở thành tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành, trong đó có nội dung quan trọng là đẩy mạnh và tăng nhanh doanh thu của Tập đoàn.
 
    Tháng 2-2009, Thủ tướng Chính phủ đồng ý chủ trương cho phép PVN được chỉ định các đơn vị thành viên thực hiện các dự án. Xuất phát từ chủ trương đó, PVN đã xây dựng một số công ty con để phát triển theo các chuyên ngành, trong đó PVC được chỉ đạo xây dựng thành một đơn vị xây lắp mạnh của Tập đoàn.
 
    Bị cáo Đinh La Thăng giải thích, Chính phủ chỉ đạo khởi công xây dựng Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 sớm nhưng bị cáo thấy thực hiện liên doanh tổng thầu sẽ mất thời gian, còn tổng thầu trong nước sẽ thực hiện nhanh hơn. Trong hoàn cảnh cấp bách đó bị cáo "đã xin Chính phủ cho PVC là tổng thầu."
 
    Khi Hội đồng xét xử chất vấn: "Trước khi chỉ định thầu có kiểm tra năng lực tài chính của PVC không?", bị cáo Đinh La Thăng trả lời, các ban của Tập đoàn PVN đều báo cáo PVC có đủ năng lực về tài chính, thi công… do vậy mới đồng ý giao PVC làm tổng thầu. Mặc dù còn thiếu một số thủ tục cho dự án này, nhưng do PVN có rất nhiều dự án triển khai, nên để đảm bảo tiến độ, Tập đoàn chỉ đạo các đơn vị thực hiện đồng bộ, không chờ xong thủ tục này mới làm tiếp thủ tục khác.
 
    Chiều 9-1, phiên tòa tiếp tục với phần thẩm vấn nhóm bị cáo bị truy tố về tội “Tham ô tài sản” trong việc thực hiện Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1, Quảng Trạch 1. Đáng lưu ý, hầu hết các bị cáo trong nhóm này đều đã nhận tội, duy chỉ có Trịnh Xuân Thanh phủ nhận hành vi tham ô tài sản.
 
    Theo cáo trạng, tháng 7-2011, Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận (nguyên Tổng Giám đốc PVC) giao cho Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó Tổng giám đốc PVC, được phân công phụ trách Ban điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch) chỉ đạo Lương Văn Hòa (Giám đốc Ban điều hành dự án) chuyển tiền của Dự án cho Trịnh Xuân Thanh, Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh sử dụng. Việc chuyển tiền được Lương Văn Hòa thực hiện thông qua đầu mối tiếp nhận là Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh Văn phòng PVC) quản lý chi theo chỉ đạo của Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận, hoặc đưa cho Nguyễn Anh Minh.
 
    Từ ngày 28-9-2011 đến ngày 23-2-2012, Lương Văn Hòa đã cùng cấp dưới gồm: Nguyễn Đức Hưng (nguyên Trưởng phòng Tài chính kế toán, Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch), Nguyễn Lý Hải (nguyên Trưởng phòng kỹ thuật Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch), Lý Xuân Khánh (nguyên Trưởng phòng Kinh tế kế hoạch Ban Điều hành Dự án Vũng Áng - Quảng Trạch) hợp thức hồ sơ thiết kế, dự toán, thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán 4 hạng mục phụ trợ, chuyển cho Nguyễn Anh Minh để Minh chỉ đạo các phòng ban của Tổng Công ty hợp thức thủ tục phê duyệt.
 
    Sau đó Lương Văn Hòa câu kết với Lê Thị Anh Hoa, Nguyễn Thành Quỳnh (Giám đốc và Kế toán trưởng Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quỳnh Hoa) lập, ký 4 hợp đồng khống có nội dung: Ban điều hành thuê Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Quỳnh Hoa thi công 3 hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 và 1 hạng mục phụ trợ của dự án Nhà máy nhiệt điện Quảng Trạch 1 để rút tổng số hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành.
 
    Trong hành vi này, bị cáo Trịnh Xuân Thanh bị xác định là người đề ra chủ trương, cùng Vũ Đức Thuận chỉ đạo Nguyễn Anh Minh và Lương Văn Hòa lập khống hồ sơ, rút hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau sử dụng cá nhân.
 
    Trong đó, Trịnh Xuân Thanh được “ăn chia” số tiền 4 tỷ đồng, Vũ Đức Thuận được chia 800 triệu đồng, Nguyễn Anh Minh hưởng lợi hơn 3,6 tỷ đồng, Bùi Mạnh Hiển được chia 400 triệu đồng… Ngoài ra, Trịnh Xuân Thanh còn phải chịu trách nhiệm cùng Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh và Bùi Mạnh Hiển trong việc sử dụng chung khoản tiền 1,5 tỷ đồng.
 
    Khai trước Tòa, các bị cáo: Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh, Lương Văn Hòa, Nguyễn Thành Quỳnh, Lê Thị Anh Hoa, Nguyễn Đức Hưng, Lê Xuân Khánh, Nguyễn Lý Hải… đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và đã nộp tiền khắc phục hậu quả.
 
    Duy chỉ có bị cáo Trịnh Xuân Thanh phủ nhận việc mình đã ra chủ trương lập khống hồ sơ, rút hơn 13 tỷ đồng từ Ban điều hành dự án Vũng Áng - Quảng Trạch để chia nhau. Đồng thời, bị cáo Thanh cũng không thừa nhận việc mình đã tham ô số tiền 4 tỷ đồng nói trên, cũng như khoản tiền 1,5 tỷ đồng sử dụng chung với các bị cáo khác.
 
    Trả lời câu hỏi vì sao bị cáo yêu cầu gia đình bồi thường 4 tỷ đồng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh cho rằng, vì bị cáo cảm thấy có trách nhiệm trước chuyện xảy ra ở PVC nên đã tự nguyện khắc phục 4 tỷ đồng.
 
    Tại tòa, em trai Trịnh Xuân Thanh là Trịnh Xuân Tuấn cho biết, gia đình đã nộp 2 tỷ đồng để khắc phục hậu quả và đang chuẩn bị nộp tiếp để khắc phục hậu quả cho bị cáo Trịnh Xuân Thanh.
 
    Liên quan đến việc bị cáo Vũ Hồng Chương (nguyên Trưởng Ban quản lý dự án điện lực dầu khí Thái Bình 2) khai đã gửi văn bản tới đích danh bị cáo Phùng Đình Thực (nguyên Tổng Giám đốc PVN), nêu rõ Hợp đồng EPC số 33 chưa hoàn thiện, các thủ tục hợp đồng vẫn chưa kết thúc thì tại phiên tòa, bị cáo Phùng Đình Thực phủ nhận, khẳng định không nhận được báo cáo nào từ Vũ Hồng Chương.
 
    Được yêu cầu đối chất, bị cáo Vũ Hồng Chương khai rõ đã gửi đích danh bị cáo Phùng Đình Thực công văn số 85 ngày 27-4-2011, thể hiện hiện trạng chưa đầy đủ của Hợp đồng EPC số 33.
 
    Về vấn đề này, bị cáo Phùng Đình Thực cho biết lần đầu tiên nhận văn bản báo cáo về tình trạng pháp lý của Hợp đồng EPC số 33 vào ngày 16/6/2011 và ngay trong ngày hôm đó đã chỉ đạo các bộ phận tìm phương án giải quyết và ngay lập tức thanh lý hợp đồng.
 
    Bị cáo Phùng Đình Thực còn khẳng định, việc thực hiện Dự án Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2 đã giao cho bị cáo Nguyễn Quốc Khánh (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVN). Bị cáo Phùng Đình Thực cũng không phải là người chốt mốc thời gian khởi công dự án.
 
    Về quy trình chuyển-nhận công văn, luật sư của bị cáo Phùng Đình Thực đặt câu hỏi: “Có trường hợp nào công văn từ đơn vị thành viên gửi tới đích danh Tổng Giám đốc mà công văn đó không đến tận tay ông Thực không?"
 
    Bị cáo Thực đã trả lời: “Thực tế, rất nhiều công văn ghi địa chỉ tên tôi, song có văn bản tôi nhận được, có cái tôi không nhận được. Vì theo quy chế về công tác văn thư, Chánh Văn phòng Tập đoàn được phép xem xét chuyển thẳng các văn bản đến các lãnh đạo tập đoàn trực tiếp giải quyết lĩnh vực đó. Một mình tôi không thể giải quyết hết được. Do đó, có công văn chuyển thẳng đến tôi, có công văn mặc dù ghi địa chỉ là gửi cho tôi, nhưng Chánh Văn phòng Tập đoàn lại chuyển đến lãnh đạo khác của Tập đoàn phụ trách giải quyết lĩnh vực đó.”
 
    Liên quan đến nội dung này, luật sư của bị cáo Phùng Đình Thực cũng đã cung cấp cho Hội đồng xét xử 2 công văn do bị cáo Vũ Hồng Chương gửi đến cho bị cáo Phùng Đình Thực đánh cùng 1 số, gửi cùng 1 ngày nhưng hai nội dung khác nhau.
 
    Trả lời câu hỏi luật sư, bị cáo Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN) thừa nhận đã có những chỉ đạo quá quyết liệt, nóng vội, nên sau 10 năm nhìn lại, bị cáo tự thấy có những việc do ép tiến độ đã khiến cấp dưới thực hiện công việc trong điều kiện chưa được đầy đủ, dẫn đến sai sót. Nhận trách nhiệm người đứng đầu, bị cáo Đinh La Thăng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét dự án này trong bối cảnh 10 năm về trước. Khi đó PVN là Tập đoàn lớn, thực hiện nhiều dự án trọng điểm cùng lúc, hành lang pháp lý còn thiếu, vừa làm vừa hoàn thiện.
 
    Bị cáo Đinh La Thăng cũng khẳng định, hiện nay PVC vẫn đang triển khai Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, tuy rằng có vi phạm tiến độ nhưng PVC vẫn là tổng thầu đủ năng lực. Ngoài ra, PVC cũng chỉ đảm trách các hạng mục xây dựng, còn lắp đặt máy móc thiết bị là các nhà thầu nước ngoài.
 
    Về Hợp đồng EPC số 33, bị cáo Đinh La Thăng cho biết, Hội đồng thành viên đề ra chủ trương đường lối thực hiện theo chủ trương của Chính phủ. Còn cụ thể trách nhiệm trước hết thuộc về chủ đầu tư. Trách nhiệm trong việc tạm ứng tiền cũng thuộc về ban điều hành dự án và chủ đầu tư.
 
    Bị cáo Đinh La Thăng cũng khẳng định không hề nhận được báo cáo những thiếu sót về căn cứ pháp lý của Hợp đồng EPC số 33 cho đến khi làm việc với cơ quan điều tra.
 
    Ngày 10-1, các luật sư tiếp tục tham gia xét hỏi các bị cáo về hành vi cố ý làm trái và tham ô tài sản.
(TTXVN)
;
.