Bài 2: Thực trạng công tác lãnh đạo của Đảng trong phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước

Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước

Thứ Hai, 29/11/2021, 15:15 [GMT+7]
    Vấn đề phòng, chống tham nhũng (PCTN) khu vực ngoài nhà nước đã được đặt ra từ năm 2009, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Công ước liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Tuy nhiên, năm 2016, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãnh phí”, chủ trương mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài nhà nước mới chính thức được đưa vào Văn kiện Đảng và tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai công tác PCTN trong khu vực ngoài nhà nước và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Những kết quả này cần được nhìn nhận một cách trung thực, khách quan từ thực tiễn.

    1. Chủ trương, chính sách của đảng về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước

    Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, tham nhũng là “giặc nội xâm”, là “kẻ thù của Nhân dân”. Ngày nay, trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta nhấn mạnh tham nhũng là một trong bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó, ở mỗi thời kỳ, trong  từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến công tác PCTN.

    Xuất phát từ yêu cầu và tầm quan trọng của công tác đấu tranh PCTN trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết (số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”, với mục tiêu: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”. Điều đó thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng ta; kiên quyết đấu tranh làm trong sạch bộ máy, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng đội ngũ công chức thật sự trong sạch, vững mạnh, tạo bước chuyển mới trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống tệ nạn tham nhũng, lãng phí mà Đảng nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo.

    Đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” (2006-2016), Đảng ta nhấn mạnh: Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp đã nghiêm túc tổ chức quán triệt Nghị quyết và Kết luận số 21 Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI); một số nơi tiến hành bài bản, sáng tạo. Các chủ trương, giải pháp PCTN, lãng phí cơ bản được triển khai thực hiện khá đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực, rõ nét. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN, lãng phí được quan tâm; thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN, lãng phí tiếp tục được hoàn thiện; công tác cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đạt được những kết quả tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc tham nhũng được tăng cường. Nhiều vụ án kinh tế tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân trong PCTN, lãng phí từng bước được phát huy. Hợp tác quốc tế về PCTN tiếp tục được mở rộng, củng cố. Tham nhũng, lãng phí bước đầu được kiềm chế, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Bên cạnh những kết quả, Đảng cũng chỉ ra những hạn chế và yếu kém, đó là: Chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và người dân về PCTN, lãng phí; cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn; công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là tự phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị; công tác giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp về PCTN, lãng phí chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa được quan tâm đúng mức; lãng phí trong cơ quan nhà nước và trong xã hội còn rất nghiêm trọng; chưa đạt được mục tiêu "ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí". Tham nhũng, lãng phí với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, đang là vấn đề thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước... 
 
Ban Nội chính Trung ương sơ kết Quy chế phối hợp với Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hội nghị sơ kết 5 năm Quy chế phối hợp giữa Ban Nội chính Trung ương với Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
    Đặc biệt, tham nhũng giờ đây, không chỉ trong khu vực nhà nước (khu vực công), mà nó đã lan sang cả khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư). Trên cơ sở kết quả tổng kết 10 năm hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”, ngày 26/12/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận (số 10-KL/TW) “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” và đề ra chủ trương mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài nhà nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Từng bước mở rộng hoạt động PCTN, lãng phí ngoài khu vực nhà nước”(1).
 
    Như vậy, việc mở rộng PCTN ra khu vực ngoài nhà nước là bước phát triển quan trọng trong tư duy, thể hiện Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ hơn những tác động tiêu cực của tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước đến mục tiêu, giải pháp PCTN nói chung ở nước ta. Đây là những định hướng, chủ trương mới, quan trọng cho việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN khu vực ngoài nhà nước.
 
    2. Thực trạng quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
 
    Lần đầu tiên Luật PCTN năm 2018, chính thức ghi nhận và quy định PCTN trong khu vực ngoài nhà nước. Khoản 2, Điều 2 quy định: “Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thực hiện bao gồm: (a) Tham ô tài sản; (b) Nhận hối lộ; (c) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi”. Điều 4 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (a) Thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng; kịp thời phát hiện, phản ánh và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham nhũng xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức mình theo quy định của pháp luật và điều lệ, quy chế, quy định của doanh nghiệp, tổ chức; (b) Kịp thời cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng của người có chức vụ, quyền hạn và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý tham nhũng.
 
    Điều 76 quy định trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề: (1) Tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của mình thực hiện quy định của pháp luật về PCTN; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; kịp thời thông báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng; (2) Kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN; (3) Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác PCTN.
 
    Đặc biệt, tại Chương VII, Luật PCTN năm 2018 quy định về PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Tại Mục 1. Xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng, quy định: “Điều 78. Quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh: (1) Quy tắc đạo đức nghề nghiệp, quy tắc đạo đức kinh doanh là chuẩn mực ứng xử phù hợp với đặc thù chuyên môn, nghề nghiệp của người hành nghề, người hoạt động kinh doanh nhằm bảo đảm liêm chính trong hành nghề, kinh doanh. (2) Khuyến khích doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, căn cứ vào quy định của Luật này và luật khác có liên quan, ban hành quy tắc đạo đức kinh doanh, quy tắc đạo đức nghề nghiệp đối với người lao động, thành viên, hội viên của mình. Điều 79. Xây dựng quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng: (1) Doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác ban hành, thực hiện quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn hành vi tham nhũng và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng. (2) Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích thành viên, hội viên xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng; giám sát việc chấp hành pháp luật về PCTN của thành viên, hội viên, tích cực tham gia vào việc hoàn thiện chính sách, pháp luật”.
 
    Tại Mục 2. Áp dụng Luật PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, có 03 điều: “Điều 80. Áp dụng các biện pháp PCTN trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: Các quy định sau đây được áp dụng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện: (a) Nguyên tắc công khai, minh bạch, nội dung công khai, minh bạch, hình thức công khai, trách nhiệm thực hiện việc công khai, minh bạch quy định tại Điều 9, các điểm a, c và d, Khoản 1, Điều 10, Điều 11 và Điều 12 của Luật này; (b) Kiểm soát xung đột lợi ích quy định tại Điều 23 của Luật này; (c) Trách nhiệm, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu quy định tại Điều 72, các điểm a, b và d, Khoản 3, Điều 73 của Luật này (...). Điều 81. 
 
    Thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (1) Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng, đối với tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện khi có dấu hiệu rõ ràng về việc vi phạm quy định tại Điều 80 của Luật này. (2) Trình tự, thủ tục thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN quy định tại Khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. (3) Tổng Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm xử lý chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động thanh tra quy định tại Khoản 1 Điều này. (4) Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Điều 82. Phát hiện tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước: (1) Doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm tự kiểm tra để kịp thời phát hiện, xử lý và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức mình. (2) Cơ quan thanh tra khi tiến hành hoạt động thanh tra nếu phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. (3) Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khi phát hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước có trách nhiệm phản ánh, tố cáo, báo cáo theo quy định tại Mục 3 Chương III của Luật này”.
 
    Ngoài Luật PCTN năm 2018, một số văn bản luật khác cũng đã quy định về PCTN khu vực ngoài nhà nước. Bộ luật hình sự năm 2015, quy định các tội phạm tham nhũng, gồm: Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ; Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Tội giả mạo trong công tác(2). Khoản 2 và 3, Điều 8, Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định về nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thực hiện PCTN(3). Khoản 6, Điều 41, Luật Chứng khoán năm 2019, nêu một số quy định có liên quan đến phòng ngừa tham nhũng ở công ty đại chúng(4). Luật các tổ chức tín dụng năm 2017 quy định nhằm kiểm soát xung đột lợi ích trong các tổ chức tín dụng.
 
    Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định các loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó có những loại thỏa thuận bị cấm và các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm(5). Bên cạnh đó, để nhận diện những hành vi có tính chất tham nhũng trong khu vực tư, ở một số văn bản, Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán(6) và kiểm toán(7).
 
    Như vậy, mặc dù Luật PCTN năm 2018, Bộ luật hình sự năm 2015 và một số Luật chuyên ngành đã quy định trách nhiệm PCTN của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp, các tổ chức khu vực ngoài nhà nước nói riêng, nhưng nhìn chung là chưa thống nhất, chưa đồng bộ. Việc quy định xử phạt hành chính đối với những hành vi tham nhũng ở khu vực ngoài nhà nước hầu như rất hiếm và chưa cụ thể, hoặc nếu có thì lại không phải là chế tài trực tiếp đối với những hành vi mang bản chất tham nhũng.
 
    3. Quá trình tổ chức triển khai thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng trong khu vực ngoài nhà nước
    
    - Vai trò của tổ chức đảng và đảng viên trong khu vực ngoài nhà nước
 
    Để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo của Đảng, một trong nhiệm vụ quan trọng đó là xây dựng và củng cố tổ chức đảng, đảng viên trong khu vực ngoài nhà nước. Những năm qua, để triển khai, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở, các tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân đã để cụ thể hóa nhiệm vụ chính trị và xây dựng quy chế làm việc phù hợp với tình hình thực tiễn. Các đảng bộ, chi bộ đã xây dựng quy chế phối hợp giữa cấp ủy đảng với Ban lãnh đạo hoặc chủ doanh nghiệp nhằm xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mỗi bên trong phát triển doanh nghiệp cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng.
 
    Nhiều tổ chức đảng đã giữ được vai trò là hạt nhân chính trị lãnh đạo xây dựng cơ quan, đơn vị; tham gia ý kiến về chiến lược, kế hoạch kinh doanh; có hình thức, biện pháp phù hợp để tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trong đó có pháp luật về PCTN nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên và người lao động; cấp ủy kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những kiến nghị, đề xuất của đảng viên, quần chủng để phản ánh với chủ doanh nghiệp xem xét, giải quyết.
    
    Một số cấp ủy đã chủ động xây dựng quy hoạch, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, bản lĩnh, uy tín, am hiểu công tác đảng tham gia cấp ủy; lựa chọn bầu bí thư cấp ủy là lãnh đạo, chủ doanh nghiệp; giới thiệu cán bộ, đảng viên có uy tín để chủ doanh nghiệp xem xét, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý... Những tổ chức đảng có cấp ủy viên, nhất là bí thư cấp ủy là lãnh đạo, chủ doanh nghiệp đã thể hiện rõ vị trí, vai trò, có đóng góp thiết thực vào sự phát triển của doanh nghiệp, chất lượng hoạt động của tổ chức đảng được nâng lên. Qua đó, tạo niềm tin, nâng cao uy tín của tổ chức đảng đối với chủ doanh nghiệp, người lao động.
 
    Nhiều tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân đã duy trì và từng bước nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh. Có nơi đã mời chủ doanh nghiệp dự sinh hoạt chi bộ, chủ động trao đổi nội dung sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ với chủ doanh nghiệp. Việc đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng hằng năm dần đi vào nền nếp, kết quả ngày càng thực chất hơn.
 
    - Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước
 
    - Xây dựng và thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử: Hiện tại, nhiều tổ chức, doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước đã xây dựng, ban hành và thực hiện quy định về chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử nghề nghiệp, cụ thể là: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã ban hành “Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng”(8); Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã ban hành Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam(9); Hội Nhà báo Việt Nam đã ban hành Quy định đạo đức, nghề nghiệp người làm báo Việt Nam(10)… Đối với các tổ chức xã hội khác và các doanh nghiệp, hầu hết đã và đang thực hiện quy chế văn hóa ứng xử, hoặc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
 
    - Thực hiện các biện pháp công khai, minh bạch: Theo quy định của Luật PCTN năm 2018, việc công khai, minh bạch các nội dung: Quy chế huy động, quản lý, sử dụng các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; quyền lợi và nghĩa vụ của người đóng góp, người được hưởng lợi; mục đích huy động các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; đối tượng, hình thức và mức huy động các khoản đóng góp; kết quả huy động, bao gồm: Danh sách các đối tượng đóng góp, tài trợ, hình thức và mức đóng góp, tài trợ của từng đối tượng; kết quả quản lý, sử dụng các khoản huy động vào mục đích từ thiện… đã được thực hiện tương đối đầy đủ. Một số cơ quan, tổ chức, như: Hội chữ thập đỏ, Quỹ vì người nghèo... đều đã thực hiện việc công khai thông tin về các khoản đóng góp trên các phương tiện thông tin đại chúng; có tổ chức còn thuê đơn vị kiểm toán để kiểm toán các khoản thu, chi của tổ chức. Hình thức công khai, chủ yếu là hình thức thông báo tại cuộc họp, niêm yết tại trụ sở hoặc thông báo bằng văn bản.
 
    Đối với các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán, việc thực hiện công khai (công bố thông tin) được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và chặt chẽ hơn. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan có thẩm quyền theo dõi, giám sát và xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp niêm yết không công khai thông tin theo quy định. Đối với các tổ chức có sự huy động việc đóng góp của nhân dân, việc thực hiện công khai thông tin thực hiện theo quy chế, điều lệ của tổ chức.
 
    - Kiểm soát xung đột lợi ích: Luật PCTN năm 2018 quy định các tổ chức tín dụng là một trong những nhóm chủ thể bắt buộc phải áp dụng một số quy định về kiểm soát xung đột lợi ích. Những năm qua, các đơn vị trong ngân hàng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng đã triển khai, quán triệt đến từng cán bộ, nhân viên nhằm nâng cao nhận thức việc phải áp dụng quy định về kiểm soát xung đột lợi ích(11). Đối với các công ty cổ phần, nhất là các công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán, việc kiểm soát xung đột lợi ích được thực hiện chặt chẽ, minh bạch và có cơ chế rõ ràng.
 
    - Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu: Để kiểm soát xung đột lợi ích và quy định chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, các doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có quy mô lớn) đều đã ban hành và thực hiện cơ chế kiểm soát nội bộ. Việc bảo đảm liêm chính và xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng để tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng không chỉ là yêu cầu của Luật PCTN mà còn là nhu cầu tự thân của chính các doanh nghiệp, tổ chức để hướng tới sự phát triển bền vững. Vì thế, một số doanh nghiệp có quy mô lớn đã ban hành Hệ thống quản lý chất lượng (ISO 9001) nhằm cụ thể hóa từng công đoạn, quy trình thực hiện nhiệm vụ của mỗi cấp quản lý (gắn với các biểu mẫu), cụ thể hóa được thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp quản lý trong hoạt động quản lý, điều hành doanh nghiệp. Có thể nói rằng, việc kiểm soát nội bộ là một phương thức hữu hiệu để bảo đảm sự liêm chính trong hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức(12).
 
    - Công tác phát hiện và xử lý tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức xã hội khu vực ngoài nhà nước
 
    + Phát hiện tham nhũng qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của các cơ quan có thẩm quyền. Năm 2019, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã triển khai 49 Đoàn thanh tra, kiểm tra tại các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng; đã xử phạt vi phạm hành chính số tiền 25.560 triệu đồng, số tiền đã thu nộp ngân sách nhà nước 4.679 triệu đồng; đã ban hành 469 quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, với tổng số tiền xử phạt gần 29 tỷ đồng (năm 2018 ra 364 quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tổng số tiền phạt gần 20 tỷ đồng)(13). Từ tháng 9/2019 đến tháng 10/2020, Ngân hàng Nhà nước lồng ghép nội dung thanh tra việc thực hiện pháp luật PCTN trong các cuộc thanh tra pháp nhân(14). Qua công tác thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh các tỉnh, thành phố phát hiện 03 vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật; tổng số tiền sai phạm 35.427 triệu đồng; 03 vụ việc đang được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh tiến hành điều tra(15). Tại Kiên Giang, qua thanh tra việc thực hiện pháp luật về PCTN đã phát hiện 02 vụ việc có dấu hiệu tham nhũng tại các doanh nghiệp ngoài nhà nước(16). Năm 2020, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị xử lý tài chính 54.770,44 tỷ đồng; chuyển hồ sơ 04 vụ việc có dấu hiệu tội phạm được phát hiện thông qua kiểm toán sang Cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật; 02 vụ việc báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; cung cấp 101 báo cáo kiểm toán và các tài liệu có liên quan cho các cơ quan chức năng(17).
 
    + Phát hiện tham nhũng qua việc kiểm tra, giám sát nội bộ của các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Năm 2019, qua công tác tự kiểm tra nội bộ phát hiện 26 vụ, 30 đối tượng; qua hoạt động thanh tra đã phát hiện 69 vụ, 45 đối tượng tham nhũng và liên quan đến tham nhũng; qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phát hiện 17 vụ, 37 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng(18). Trong ngành Ngân hàng, kết quả phát hiện, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật qua hoạt động kiểm tra và tự kiểm tra nội bộ của cơ quan, tổ chức, đơn vị cho thấy: Phát hiện 05 vụ việc vi phạm pháp luật, tổng số tiền vi phạm 22.209 triệu đồng; số cán bộ vi phạm 05 người(19).
 
    Kết quả phát hiện tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra của các ngành vẫn là khâu yếu đã được các cơ quan có thẩm quyền chỉ ra: “Việc phát hiện tham nhũng thông qua công tác tự kiểm tra nội bộ, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới là khâu yếu, nhưng vẫn chưa được khắc phục”(20).
 
    4. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật nhà nước về phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nhà nước
 
    Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận cấu thành công tác lãnh đạo của Đảng. Từ năm 2013 đến nay, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực) do Tổng Bí thư trực tiếp làm Trưởng ban rất quan tâm đến việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực PCTN. Trong Chương trình công tác thường xuyên hằng năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực đều có chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thực hiện nội dung PCTN tại cấp ủy đảng các cấp. Ngoài kế hoạch thường xuyên, Ban Chỉ đạo Trung ương còn ban hành kế hoạch kiểm tra, giám sát theo chuyên đề.
 
    - Năm 2013, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN thành lập 07 Đoàn công tác kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, tại: 04 ban cán sự đảng và Đảng ủy; 11 Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy; 70 cơ quan, đơn vị trực thuộc(21). Trên cơ sở kết quả các Đoàn kiểm tra, giám sát này, ngày 07/12/2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng.
 
    - Từ năm 2013 đến năm 2018, trên cơ sở các Đoàn kiểm tra, giám sát công tác PCTN của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã nêu ra 62 kiến nghị, trong đó có 42 kiến nghị về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo thu hồi tài sản tham nhũng; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thu hồi tài sản; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản; chỉ đạo kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân sai phạm trong công tác thu hồi tài sản...; 20 kiến nghị khắc phục sơ hở, bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật; chỉ đạo xử lý 02 vụ án, 20 vụ việc về thu hồi tài sản nghiêm trọng, phức tạp hoặc có khó khăn, vướng mắc, kéo dài(22). Từ kết quả này, ngày 02/6/2021, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị (số 04-CT/TW) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
 
    - Năm 2019, Ban Chỉ đạo  Trung ương về PCTN tổ chức 03 Đoàn công tác kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đối với công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; làm việc với 06 Ban Thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương; 76 cơ quan, đơn vị trực thuộc. Kết quả đã đưa ra nhiều nhóm kiến nghị đối với các địa phương để khắc phục các hạn chế, thiếu sót; kiến nghị chỉ đạo xử lý 61 vụ việc, 07 vụ án(23)
 
    Như vậy, có thể nói, công tác kiểm tra, giám sát của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã góp phần: (1) Bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực PCTN; (2) Tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội; (3) Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng.    
    
    (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG-ST, H.2021, t.2, tr.253.
    (2) Từ Điều 353 đến Điều 359, Bộ luật hình sự, Nxb CTQG, H. 2016, tr.412-422.
    (3) Luật Doanh nghiệp năm 2020. Nguồn: http//LuatVietnam.vn; truy cập ngày 12/10/2021.
    (4) Luật Chứng khoán năm 2019. Nguồn: http//LuatVietnam.vn; truy cập ngày 12/10/2021.
    (5) Điều 11, số 41/2018/NĐ-CP, ngày 12/3/2018 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập.
    (8) Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam: Bộ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử của cán bộ ngân hàng. Nguồn: https://sonoivu.hanoi.gov.vn/thong-bao/-/view_content/3160344-chuan-muc-dao-duc-nghenghiep-vĐiều 12, Điều 45, Luật Cạnh tranh năm 2018. Nguồn: http//LuatVietnam.vn; truy cập ngày 12/10/2021.
    (6) Nghị định số 108/2013/NĐ-CP, ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (và Nghị định số 145/2016/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP…).
    (7) Nghị định a-quy-tac-ung-xu-cua-can-bo-ngan-hang-160566.html.
    (9) Liên đoàn Luật sư Việt Nam: Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ, ngày 13/12/2019).
    (10) Hội Nhà báo Việt Nam: Quy định đạo đức, nghề nghiệp người làm báo Việt Nam (Quyết định số 483/QĐ-HNBVN, ngày 16/12/2016).
    (11) Báo cáo số 261/BC-NHNN, ngày 10/8/2020 của Ngân hàng Nhà nước về công tác PCTN phục vụ Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV của ngành Ngân hàng (thời kỳ từ 01/8/2019 đến 31/7/2020).
    (12) Báo cáo đánh giá quy định pháp luật về PCTN trong khu vực ngoài nhà nước và đề xuất hướng dẫn đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước tại Việt Nam do Thanh tra Chính phủ - UNDP thực hiện năm 2020.
    (13) http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luaưnam-2019-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-trong-linh-vucchung- khoan-tang-manh-318036.html
    (14) Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp về báo cáo công tác PCTN năm 2020 của Chính phủ.
    (15) Báo cáo số 261/BC-NHNN, ngày 10/8/2020 của Ngân hàng Nhà nước về công tác PCTN phục vụ Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV của ngành Ngân hàng (thời kỳ từ 01/8/2019 đến 31/7/2020).
    (16) Báo cáo số 279/BC-UBND, ngày 06/8/2020 của UBND tỉnh Kiên Giang về công tác PCTN năm 2020.
    (17) Báo cáo số 395/BC-CP, ngày 03/9/2020 của Chính phủ về công tác PCTN năm 2020.
    (18) Báo cáo số 488/BC-CP, ngày 15/10/2019 của Chính phủ về công tác PCTN năm 2019.
    (19) Báo cáo số 261/BC-NHNN, ngày 10/8/2020 của Ngân hàng Nhà nước về công tác PCTN phục vụ Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV của ngành Ngân hàng (thời kỳ từ 01/8/2019 đến 31/7/2020).
    (20) Báo cáo của Ủy ban Tư pháp ngày 16/10/2019 thẩm tra báo cáo của Chính phủ về công tác PCTN năm 2019.
    (21) Tài liệu của Ban Nội chính Trung ương.
    (22) Tài liệu của Ban Nội chính Trung ương.
    (23) Tài liệu của Ban Nội chính Trung ương.
ThS. Đàm Văn Lợi
(Ban Nội chính Trung ương)
(Còn nữa: Bài 3: Hạn chế, khó khăn và những vấn đề rút ra từ thực tiễn quá trình thực hiện chính sách, pháp luật PCTN khu vực ngoài nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng)

Bài 1: Đảng lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài Nhà nước

.