Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với vấn đề văn hóa của Đảng cầm quyền

Thứ Ba, 28/01/2020, 05:26 [GMT+7]
    Nói về văn hóa của một đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề cốt lõi là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Điều này lý giải tại sao trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ngay từ trước khi thành lập Đảng cho đến khi từ trần, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đặt lên hàng đầu vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng. Bài viết phản ánh về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề văn hóa của đảng cầm quyền. 
 
    Cách đây tròn 60 năm, ngày 05/01/1960, tại Lễ kye niệm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài nói chuyện với các đại biểu, trong đó, Người tóm tắt quá trình đấu tranh anh dũng, hy sinh của Đảng giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và xây dựng đất nước. Người nhấn mạnh và khẳng định: “Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”, “vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Kết thúc bài phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc mấy vần thơ: “Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao/Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình/Đảng ta là đạo đức, là văn minh/Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no/Công ơn Đảng thật là to/Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”. Những câu thơ trên đã tạc vào trong trái tim, trí óc của mỗi đảng viên của Đảng, lan tỏa toàn xã hội và là mục đích, phương châm chính trong hành động của Đảng, xuyên suốt trong 90 năm qua.
 
    Ngược dòng lịch sử, trong suốt quá trình cách mạng của Đảng, cả trước khi Đảng ta ra đời, trong cách mạng giải phóng dân tộc đến xây dựng miền Bắc XHCN đấu tranh thống nhất nước nhà, trong tư tưởng, quan điểm và hành động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhất quán rằng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh...”. Từ khi người thanh niên Nguyễn Tất Thành bước chân lên một tàu buôn tại Bến cảng Nhà Rồng, Sài Gòn, ra đi tìm đường cứu nước, thì trong dòng máu của Anh Ba - Nguyễn Tất Thành đã tràn đầy nhiệt huyết của nền văn hóa con Lạc cháu Hồng. Trong khi chưa tìm được đường cứu nước cứu dân thì người thanh niên yêu nước ấy đã có điều kiện để đắm mình, tìm hiểu, tiếp thu văn hóa phương Tây và văn hóa nhiều nước khác nhau trên thế giới. Ba mươi năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài (1911-1941), chủ yếu là ở trung tâm văn minh châu Âu và ngọn nguồn tinh hoa của những cuộc cách mạng tư sản, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ mọi thời gian và điều kiện để tiếp nhận những gì cần cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và của các dân tộc cùng cảnh ngộ. Nguời đã đến với phương Tây và tiếp thu văn hóa phương Tây, trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ, tự do, tiến bộ, văn minh. Người sớm có cảm tình sâu sắc, am hiểu văn hóa phương Tây và đã tôi luyện những lý tưởng về truyền thống cách mạng dân chủ, tự do, tiến bộ ở xứ sở này. Một vốn tri thức đồ sộ qua các trang sách, những cuộc khảo nghiệm thực tế phong phú đã làm giàu thêm vốn văn hóa phương Tây trong con người Nguyễn Ái Quốc. Những cuộc tiếp xúc gặp gỡ với các nhà văn, nhà hoạt động chính trị - xã hội tiến bộ thời bấy giờ, việc tham gia sinh hoạt văn học, triết học, chính trị, kinh tế tại các câu lạc bộ, những chuyến tham quan nhà máy, bảo tàng, danh lam thắng cảnh, cũng như những buổi miệt mài đọc sách trong thư viện và nhất là cuộc sống hòa nhập với thợ thuyền lao khổ ở các nước châu Âu... chẳng những đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc sự hiểu biết, tích lũy những giá trị văn hóa của phương Tây mà còn bồi dưỡng cho Người khả năng phân tích khoa học và lý tính mà một người đào tạo theo lối Nho giáo trước đó không thể có được.
 
    Trong thời gian này,  cũng là lần đầu tiên Người được tiếp xúc những giá trị khác cũng chỉ văn hóa phương Tây lúc bấy giờ mới có, như: Chủ nghĩa nhân văn; khát vọng tự do; tinh thần không khoan nhượng chống chế độ nô lệ và sự áp bức bóc lột được chuyển tải sâu đậm trong sách báo lúc bấy giờ. Từ cuối năm 1917, khi trở lại nước Pháp giữa những ngày ác liệt nhất của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Nguyễn Ái Quốc, với nhiệt tình cách mạng của mình, đã hăng hái lao mình vào trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga và thông qua những người cùng khổ nhất nước Pháp đã bắt gặp chân lý cứu nước trong Luận cương của Lênin cũng như về chủ nghĩa Mác-Lênin. Sau đó, những năm tháng sinh sống, học tập và hoạt động trên đất nước của Lênin vĩ đại, cùng với việc được trang bị, trải nghiệm thêm về kiến thức, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, vốn sống thực tiễn của một nước XHCN đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc còn được đắm mình trong nền văn hóa Nga - Xô viết vĩ đại giàu truyền thống nhân văn. Với vốn văn hóa và những trải nghiệm trong quá trình lăn lộn phong trào công nhân, nhân dân lao động và khi đã được trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã có nguồn vốn tri thức, vốn văn hóa vô cùng lớn và phong phú làm hành trang để lao vào cuộc đấu tranh kiên trì, gian khổ trên phạm vi quốc tế cũng như trong khuôn khổ quốc gia để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, một sản phẩm lý luận và tinh thần, tinh hoa của nhân loại và cũng là của thời đại vào trong nước để lập nên một chính đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động Việt Nam.
 
    Có thể khẳng định rằng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tinh hoa của nền văn hóa châu Ấu và của một số nước khác trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước truyền thống và truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc là cái nôi nuôi dưỡng và thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết cách mạng của lòng yêu nước, ý chí kiên cường, bất khuất của người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Chỉ trên nền tảng bền vững đó thì sự tiếp nhận văn hóa bên ngoài mới được thực hiện một cách khoa học, hiệu quả, để từ đó tạo điều kiện để đất nước ta vươn lên một thế giới hòa bình, ổn định, trong đó mỗi người dân Việt Nam có quyền sống trong dân chủ, công bằng, văn minh và phát triển. Đồng thời, cũng phải nhấn mạnh rằng quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc không diễn ra một cách thụ động, xuôi chiều mà luôn luôn có sự trao đổi, sàng lọc cần thiết. Ở Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tuyệt đối không thể là một sự tiếp nhận nguyên xi, một cách giáo điều, mà nó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn hóa phương Tây với văn hóa phương Đông, làm nên nhân cách của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh để sự vận dụng đúng đắn và thích hợp vào các điều kiện lịch sử và xã hội Việt Nam, đáp ứng đúng yêu cầu không ngừng vươn lên của nhân dân, của dân tộc trong những điều kiện lịch sử ngày càng đổi mới.
 
    Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lần nói: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ”. Khi nói về văn hóa của một đảng cầm quyền nghĩa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần gắn liền với sự ra đời, với mục tiêu lý tưởng và cách thức tổ chức, phương pháp hoạt động của Đảng, thì các giá trị đó đã tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc, tạo niềm tin làm nên sức mạnh cho Đảng. Hồ Chí Minh đã khái quát văn hóa của Đảng ta bằng một định nghĩa rất súc tích, tài tình, phản ánh đúng bản chất của Đảng: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Ở đây “đạo đức” là cốt lõi trong nền văn hóa của mỗi dân tộc, là giá trị truyền thống kết hợp với giá trị đạo đức cách mạng sống trong một tổ chức, phù hợp với xu thế và những giá trị nhân văn mà nhân loại tiến bộ trân trọng hướng tới. Đạo đức của Đảng, của các đảng viên là kết tinh truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, kết hợp với tinh hoa văn hóa  nhân loại trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. “Văn minh” của Đảng là sự tiêu biểu cho trí tuệ, cho lực lượng tiên phong của giai cấp, dân tộc, là lý tưởng hướng tới những giá trị tốt đẹp của một xã hội hiện đại và không ngừng vươn lên định hướng cho sự tiến bộ, sự phát triển của đất nước, dân tộc. “Đạo đức”, “văn minh” là kết tinh của tư chất văn hóa cao và đó cũng là  biểu hiện đặc trưng nhất văn hóa của Đảng ta. Dù không có tác phẩm riêng bàn về văn hóa nhưng qua những bài phát biểu, nói chuyện tại các hội nghị, qua các bài viết, thư từ, ghi chép cá nhân và nhất là toát lên trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, chúng ta thấy sự nhất quán từ rất sớm trên bước đường hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn dành mối quan tâm đặc biệt đến những khía cạnh văn hóa, quán xuyến trong toàn bộ hoạt động của Đảng cũng như sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân.
 
    Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của văn hóa thời đại, kết hợp giữa đỉnh cao của văn hóa nhân loại là chủ nghĩa Mác-Lênin với đỉnh cao của phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người nói: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân, phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng”. Như vậy, văn hóa dân tộc, văn hóa đồng thời là cơ sở để củng cố, phát triển trưởng thành của Đảng và từ đó văn hóa của Đảng làm giàu thêm kho tàng văn hóa dân tộc và ngày càng mang tính thời đại. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại và tính thời đại là một đặc trưng nổi bật của văn hóa của Đảng ta. Theo Hồ Chí Minh có những đặc trưng giá trị bền vững, được kết tinh trước hết ở bản chất, mục tiêu lý tưởng, nền tảng tư tưởng và trí tuệ của Đảng. Điều mà Người đã nêu ra trong Chính cương vắn tắt: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đó là mục tiêu làm sao cho “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là “ham muốn tột bậc”, mang đậm tính chất nhân văn của dân tộc, đồng thời là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt mọi hoạt động của Đảng ta.
 
    Khi nói về văn hóa của một đảng cầm quyền, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn đề cốt lõi là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Điều này lý giải tại sao trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, ngay từ trước khi thành lập Đảng cho đến trước khi “đi xa”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đặt lên hàng đầu vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng. Từ năm 1927, mở đầu tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra như một bài học đầu tiên. Đó là “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó có 23 điều “cần” và “phải”. Vì là một đảng cầm quyền cho nên, Đảng ta thường xuyên tập trung để sửa đổi lối làm việc để bảo đảm, xứng danh tư cách của một Đảng chân chính cách mạng. Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập (năm 1945) trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, một trong sáu nhiệm vụ cấp bách được Bác Hồ đề ra là “giáo dục lại nhân dân chúng ta trở nên một dân tộc xứng dáng với nước Việt Nam độc lập”. Hàm ý sâu xa ở đây là trước khi giáo dục lại nhân dân và muốn giáo dục được nhân dân thì trước hết hàng ngũ lãnh đạo (các bộ trưởng trong Hội đồng Chính phủ, các cán bộ, đảng viên) phải tự giáo dục, phải nêu gương, là tấm gương sáng. Cán bộ, đảng viên, lãnh đạo cũng hủ hóa như chế độ thực dân bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác thì làm sao giáo dục được nhân dân. Đến khi đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên có quyền hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đi sâu vào các điều căn cốt như là thước đo, tiêu chí tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, đó là:  (1) Đảng “không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”; nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; (2) Đảng phải dựa vào quần chúng mà kiểm soát chỉ thị, liên hệ chặt chẽ với dân chúng và giải quyết nhiều việc khác; (3) Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, phải thật thà tự phê bình và phê bình, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; (4) Đảng phải chọn những người trung thành, hăng hái làm lãnh đạo, đồng thời luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương; (5) Đảng luôn phải dựa vào quần chúng, nhân dân để xét lại những nghị quyết của mình. Đạo đức cách mạng cao cả được thể hiện ở phẩm chất của từng cán bộ, đảng viên suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đặt lợi ích của Đảng của nhân dân, của dân tộc  lên trên hết; có cuộc sống giản dị, trong sạch “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Một trong những điều quan tâm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Sao cho được lòng dân” với tinh thần “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh.cChúng ta phải tin dân, yêu dân,kính dân. Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là công bộc của dân”. Người liên tục cảnh báo sự hủ hóa của cán bộ  với những biểu hiện “lên mặt làm quan cách mạng”, độc hành độc đoán, dĩ công dinh tư, dùng pháp công báo thù tư, trái phép, cậy thế, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo, địa phương chủ nghĩa, óc quân phiệt quan liêu, óc hẹp hòi, ích kỷ, kiêu ngạo,… làm cho dân oán Chính phủ và đoàn thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh bận tâm khi đảng cầm quyền, vì giải phóng và phát triển là công việc to tát, mà cán bộ, đảng viên không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì. Bởi thế cho nên, không phải ngẫu nhiên mà cụm từ “Đảng cầm quyền” trong Di chúc được Hồ Chí Minh đặt trước đoạn viết về đạo đức. Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Bác Hồ viết như vậy cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa quyền lực và đạo đức. Cán bộ cách mạng phải lấy “đạo đức làm gốc”. Đã cầm quyền, có quyền thì phải thấm nhuần và thật sự thực hành đạo đức cách mạng mà lõi cốt là trọn vai trò vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn, không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Cho nên việc giữ gìn và nâng cao, bổ sung các giá trị văn hóa vừa có tính quy luật, vừa là một việc làm thường xuyên, là trách nhiệm của mỗi tổ chức, cấp ủy đảng và mọi cán bộ, đảng viên. Để gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa trong mọi hoạt động của Đảng ta, theo Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đặt vấn đề thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng. 
 
    Sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã, nhiều nhà khoa học Mác xít đã đi tìm câu trả lời cho thảm họa thế kỷ này. Người ta đã tìm thấy câu trả lời từ văn hóa của đảng cầm quyền. Chính những biểu hiện phản văn hóa của nhiều đảng cầm quyền đã dẫn đến đánh mất vai trò lãnh đạo của nhiều Đảng Cộng sản, làm sai lệch biến dạng bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Cách đây gần tròn một thế kỷ, khi được diện kiến và trò truyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà báo trẻ người Liên Xô Ô. Manđenxtam đã sớm nhận thấy “từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”. “Nền văn hóa trong tương lai” tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh kết tinh từ những giá trị truyền thống quý báu của văn hóa dân tộc Việt Nam kết hợp với tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là thứ văn hóa mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang hướng tới.
Vũ Lân
.