Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Thứ Bảy, 01/02/2014, 00:01 [GMT+7]
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống văn hóa và những kinh nghiệm xây dựng, quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết quả của sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo sát nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà nước điển hình như Mỹ, Pháp, Liên Xô..., đồng thời, sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện nước ta. Mặc dù Hồ Chí Minh không dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã được thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của Người về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà còn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của Hồ Chí Minh với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau:
Một là, nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân Hồ Chí Minh xác định bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(1). Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Điều 1 Hiến pháp 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(2). Bộ máy nhà nước là do nhân dân lựa chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, khác với chế độ phong kiến Vua là chủ, nay là chế độ dân chủ, nhà nước của dân thì dân là chủ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng, mà là công bộc của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”(3). Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Trong khi khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân đối với Nhà nước, Hồ Chí Minh cũng luôn trăn trở một điều có ý nghĩa quyết định là: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(4). Người chỉ rõ, Nhà nước phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân dân với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(5). Để bảo đảm tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự ủy quyền của nhân dân, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc Tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước. Bởi vì theo Người: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà... Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”(6). Những việc quan trọng Nhà nước phải đưa ra để lấy ý kiến nhân dân. Điều thứ 32 Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”. Thực chất đây là cách “trưng cầu ý dân”, một hình thức dân chủ trực tiếp của nhà nước pháp quyền hiện đại đã được Hồ Chí Minh nhận thức và đề ra khá sớm ở nước ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, do dân không chỉ ở chỗ nhà nước đó do dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ, phải xin ý kiến nhân dân những công việc hệ trọng, mà còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Nhân dân có quyền phê bình, xây dựng, giúp đỡ Nhà nước. Quyết định gì mà dân chúng cho là không hợp thì cũng phải sửa chữa. Phải dựa vào ý kiến của nhân dân mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của Nhà nước. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân.
Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho”(7). “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”(8). Người còn viết: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”(9). Hồ Chí Minh quan niệm trong nhà nước pháp quyền do dân và vì dân, nhân dân là nguồn gốc sức mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vô tận giúp Nhà nước hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”, “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy cũng làm không xong...”(10).
Vì vậy, Nhà nước phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt khác, Nhà nước được thành lập không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện vai trò người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề của chính mình. Nói về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”(11).
Hai là, nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật Qua thực tiễn tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ và tham khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong quản lý xã hội, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Năm 1919, trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh đã đòi thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu sách đã được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đặt vấn đề phải có Hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Theo tinh thần “thượng tôn luật pháp”, Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động một cách hợp Hiến và hợp pháp, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, đọc Tuyên ngôn khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là “chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”(12). Và chỉ trong một thời gian ngắn Hồ Chí Minh đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến pháp 1946, đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên cương vị là Chủ tịch nước (từ năm 1945 đến năm 1969), Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành pháp có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nước ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 Sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật, trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, qua đó hình thành một thể chế bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp quyền.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật, tổ chức và vận hành Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, bảo vệ quyền lợi của nhân dân, nhưng phải nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Người chỉ rõ: “Tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế độ và pháp luật của Nhà nước”(13); “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kể kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(14). Hồ Chí Minh luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ, đồng thời, nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành, trước hết là cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật. Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, Người viết: “Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”(15).
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ nhân dân. Người đã ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam, ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-5-1950 ban hành Quy chế công chức, chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính, khởi xướng việc xây dựng hệ tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chính quy, hiện đại, dân chủ, công bằng, công khai. Không chỉ quan tâm đến việc xây dựng pháp luật và đội ngũ cán bộ công chức nhà nước ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc đưa pháp luật vào đời sống, tạo cơ chế để pháp luật được thi hành nghiêm minh. Người rất coi trọng việc giáo dục pháp luật cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Đối với các cán bộ và cơ quan nhà nước, Người đòi hỏi không những phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn phải đặc biệt “gương mẫu trong việc thi hành Hiến pháp và các luật lệ”(16).
Ba là, nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân, vì dân phải là Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở tìm cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một nhà nước pháp quyền kiểu mới, trong sạch, vững mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Trong rất nhiều giải pháp đã thực hiện, có hai nội dung cơ bản được Người đặc biệt quan tâm, đó là:
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và “pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại cho dân, cho nước.
Để làm tròn vai trò là “đày tớ của nhân dân”, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở công bằng và thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh cũng rất kiên quyết với những hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm tội, dù người đó ở cương vị nào. Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Trong trả lời chất vấn của Quốc hội vào năm 1946, Người nói: “Chính phủ hết sức làm gương, nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ hối lộ, đã trừng trị, đang trừng trị và sẽ trừng trị cho kỳ hết”. Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân xá giảm án tử hình của nhiều kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, dù đó là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn thể hiện là một con người gương mẫu, sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, bao dung, nhân ái, nhưng vẫn giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Người không bao che, dung túng cho những hành vi sai lầm, khuyết điểm, vi phạm pháp luật của bất cứ ai, nhưng đồng thời vẫn dùng sức mạnh, uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ về phía cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để họ tránh vi phạm pháp luật.
- Luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi lập nước, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng(17). Vũ khí để phòng ngừa, khắc phục những sai lầm trên, theo Hồ Chí Minh, chính là đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình, phát huy vai trò gương mẫu, tự giác đề phòng và sửa chữa sai lầm trong nội bộ tổ chức, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Người viết: “Từ ngày thành lập Chính phủ, trong nhân viên còn có nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đỏ, chợ đen, khinh dân, mưu vinh thân, phì gia... Xin đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ giám sát công việc của Chính phủ”(18). Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”, những căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn trong bộ máy nhà nước mà chúng ta phải luôn đề phòng và kiên quyết chống, nếu không sẽ dẫn đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được. Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật thám”(19). Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa đánh thù trong và diệt giặc ngoài: “Chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận... Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”(20). Đồng thời, Người không quên nhấn mạnh, đây là một cuộc đấu tranh rất gay go, phức tạp, đòi hỏi phải có quyết tâm cao: “Việc đấu tranh với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc đấu tranh với kẻ địch ở trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót... vì vậy, phải có quyết tâm đấu tranh mới được”(21).
Bốn là, Nhà nước ta do đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”(22). Bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(23). Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo, và Đảng ta trở thành đảng cầm quyền. Trong Di chúc gửi lại đồng bào, đồng chí, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Người thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb CTQG, H.1995, tr.232, 515.
(2) Hiến pháp Việt Nam năm 1946,1959,1980 và 1992. Nxb CTQG, H.1995, tr.8.
(3) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.56 .
(4) Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr.223.
(5) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.56-57.
(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.133.
(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.7, tr.368.
(8) Hồ Chí Minh: Sđd, t.9, tr.579-597.
(9) Hồ Chí Minh: Sđd, t.7, tr.282.
(10) Hồ Chí Minh: Sđd, t.6, tr.292.
(11) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.56.
(12) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.8.
(13) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.234.
(14) Hồ Chí Minh: Sđd, t.6, tr.127.
(15) Hồ Chí Minh: Sđd, t.5, tr.382.
(16) Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.30.
(17) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr.58.
(18) Hồ Chí Minh: Sđd, t.5, tr.61.
(19) Hồ Chí Minh: Sđd, t.6, tr.490.
(20) Hồ Chí Minh: Sđd, t.6, tr.495.
(21) Hồ Chí Minh: Sđd, t.7, tr.36.
(22) Hồ Chí Minh: Sđd, t.9, tr.586.
(23) Hồ Chí Minh: Sđd, t.9, tr.588..
|
PGS, TS. Ngô Ngọc Thắng
(Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I)
;