Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân
Thứ Hai, 16/02/2015, 01:52 [GMT+7]
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn khẳng định: “Đảng ta là Đảng của dân, do dân, dựa vào dân và vì
dân”(1). Cố Tổng Bí thư còn giải thích rất rõ rằng: Nói như vậy không phải là hòa tan Đảng vào dân, làm lu mờ tính chất giai cấp công nhân của Đảng. “Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân” và “Đảng là của dân, do dân, dựa vào dân và vì dân”, hai vế đó không mâu thuẫn nhau, không đối lập nhau; trái lại, nó bổ sung cho nhau để làm nên bản chất tốt đẹp của Đảng. Đảng luôn tự nhận mình là của dân. Dân luôn coi Đảng là của chính mình.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng đã thật sự xứng đáng với sự tin cậy của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc vì đã lãnh đạo toàn dân làm nên những chiến công hiển hách: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hiện nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn đó làm cho mối quan hệ giữa Đảng với dân ngày càng thêm gắn bó, trở thành mối quan hệ máu thịt.
Tuy nhiên, cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng không phải chỉ toàn thắng lợi mà còn có cả những vấp váp, thậm chí những sai lầm nghiêm trọng. Ví dụ, sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ. Và, sau đại thắng mùa xuân năm 1975, khi cả nước bước
vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng đã phạm phải một số sai lầm trong việc hoạch định những chủ trương, chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Vì thế, vào giữa thập kỷ 80 (thế kỷ XX) kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn gay gắt. Thêm vào đó, tình trạng
mất dân chủ, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, ức hiếp, trù dập quần chúng, tham nhũng, ăn cắp của công để làm giàu bất chính đã làm cho lòng tin của quần chúng đối với Đảng bị giảm sút, mối quan hệ giữa Đảng với dân bị rạn nứt.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng phạm sai lầm và đó là điều khó tránh. Vấn đề quan trọng là Đảng đã luôn đề cao tinh thần trách nhiệm trước giai cấp và dân tộc, dựa vào dân, tin dân, dũng cảm nhận khuyết điểm trước nhân dân và có quyết tâm sửa chữa. Đại hội VI của Đảng đã thể hiện tinh thần đó. Đại hội đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm, chỉ ra những nguyên nhân và bài học lớn, đồng thời đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, khắc phục tư duy cũ và cách làm cũ. Đó là đường lối hợp quy luật, hợp lòng dân, cho nên được nhân dân đón nhận và hưởng ứng tích cực. Phong trào hành động cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được khơi dậy.
Đến nay, sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có những bước tiến rất rõ rệt. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, gia nhập vào khối các nước đang phát triển và có mức thu nhập trung bình; bức tranh toàn cảnh về kinh tế - xã hội đã có sự khởi sắc, tạo ra những tiền đề cần thiết đưa đất nước chuyển sang một thời kỳ phát triển mới; lòng tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố. Tuy vậy, chúng ta không chủ quan, thỏa mãn vì những thành tựu bước đầu. Hơn nữa, trong quá trình đổi mới nhất định sẽ phát sinh những mâu thuẫn mới đòi hỏi phải tỉnh táo để xử lý có kết quả.
Bản chất tốt đẹp của Đảng chỉ được giữ vững, sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo chỉ có thể phát triển và đạt được những thành tựu vững chắc khi Đảng có dân, được dân ủng hộ, mối quan hệ giữa Đảng với dân thường xuyên được củng cố. Để có được điều đó, Đảng đã không ngừng phấn đấu, rèn luyện, nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình. Cụ thể là:
1. Hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân
Ở đây, tầm nhìn xa, trông rộng; khả năng nắm bắt được các quy luật khách quan đang vận động trong hiện tại và dự báo một cách chính xác sự vận động của nó trong tương lai; khả năng nắm bắt kịp thời, đúng đắn những tâm tư, nguyện vọng và đáp ứng được lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội; thái độ nghiêm túc, chú ý lắng nghe ý kiến của nhân dân để kịp thời sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm nhằm hoàn thiện đường lối, chính sách của mình là những phẩm chất hàng đầu mà Đảng phải có. Ngày nay, trong giai đoạn cách mạng mới, quy mô và tính phức tạp của nó lại càng đỏi hỏi Đảng phải nâng cao các phẩm chất đó lên một trình độ mới, cao hơn. Việc xác định nội dung và bước đi, cụ thể hóa những nội dung của công cuộc đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sao cho chính xác và khi thực hiện thì mang lại hiệu quả cao là những điều không đơn giản. Chúng ta chủ trương đổi mới cả hai lĩnh vực kinh tế và chính trị, trong đó kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt.
Chính trị là một lĩnh vực rất nhạy cảm, cho nên việc đổi mới hệ thống chính trị phải được tiến hành rất thận trọng và vững chắc, không để xảy ra sự mất ổn định trong xã hội, bảo đảm thuận lợi cho toàn bộ tiến trình đổi mới đất nước. Bước đi và cách tiến hành của Đảng đã được nhân dân chấp nhận và được thực tế chứng minh là đúng đắn.
2. Dân chủ hóa đời sống xã hội
Thực hiện dân chủ là bảo đảm trên thực tế quyền làm chủ của người dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy cao độ tính tích cực chính trị xã hội và sự sáng tạo của họ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ sau Đại hội VI của Đảng đến nay, nền dân chủ của xã hội ta đã phát triển một bước đáng kể gắn liền với việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều đã có những chuyển động tích cực theo hướng dân chủ hóa.
Các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng đều đã có nhiều cố gắng trong việc tạo ra những cơ chế phát huy dân chủ. Song, đáng tiếc là những chuyển biến đó chưa nhiều, chưa rộng và chưa sâu. Tình trạng vi phạm dân chủ còn diễn ra cả trong sinh hoạt của nội bộ Đảng, của các cơ quan nhà nước và đoàn thể quần chúng; cả về quyền công dân trên các mặt của đời sống xã hội.
Để dân chủ hóa xã hội, thật sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân phải kiên quyết chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Nơi nào dung túng cho những kẻ xấu lộng hành, phá hoại an ninh, trật tự xã hội thì ở đó không thể nào có dân chủ. Càng mở rộng dân chủ càng phải chú ý đến tập trung. Dân chủ và tập trung là hai mặt của thể chế dân chủ. Chúng ta chỉ chống tập trung quan liêu chứ không chống tập trung đúng đắn. Tập trung là sự thể hiện của những đòi hỏi về tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, sự tôn trọng kỷ cương và pháp luật - những điều không thể thiếu được trong một thể chế dân chủ. Không có pháp luật, kỷ luật, kỷ cương bảo đảm thì dân chủ cũng chỉ dừng lại trên những khẩu hiệu chứ không thể trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Để dân chủ hóa xã hội phải không ngừng nâng cao dân trí. Trước hết, cần nâng cao sự hiểu biết về dân chủ và về pháp luật cho mọi người dân. Thí dụ, phải làm cho dân hiểu rõ, ngày nay nói đến dân chủ thì đó hoặc là dân chủ tư sản, hoặc là dân chủ xã hội chủ nghĩa, không có thứ dân chủ chung chung. Dân chủ ở nước ta là dân chủ của số đông, là quyền lực thực sự thuộc về nhân dân lao động. Dân chủ tư sản đi liền với chuyên chính tư sản, còn dân chủ xã hội chủ nghĩa đi liền với chuyên chính vô sản. Đánh giá nền dân chủ của một chế độ xã hội nào đó không thể căn cứ vào những khẩu hiệu nêu ra mà phải xem nó thực thi khẩu hiệu đó như thế nào. Khi quần chúng không hiểu biết đầy đủ về dân chủ và pháp luật thường dẫn tới tình trạng: Một là, không biết mình có quyền dân chủ nên khi quyền đó bị vi phạm không đấu tranh để đòi lại; hai là, dễ bị kẻ địch lợi dụng, kích động dẫn đến đấu tranh vô nguyên tắc, có những hành động quá khích.
3. đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị
Lâu nay có một số người hiểu sai lệch khái niệm Đảng cầm quyền. Họ cho rằng, Đảng cầm quyền đồng nghĩa với cực quyền; Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng thâu tóm mọi quyền lực về tay mình. Vì thế, họ lớn tiếng kêu gọi: Hãy trả lại quyền lực cho nhân dân; Đảng cầm quyền thì dân mất quyền; muốn cho dân có quyền thì Đảng phải từ bỏ vai trò lãnh đạo của mình. Thật ra, Đảng lãnh đạo là để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Quyền của Đảng và quyền của dân không hề đối lập nhau.
Thực tế đã cho thấy, chỉ khi nào Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình thì dân mới có quyền lực thực sự và khi nào quyền lực thực sự thuộc về nhân dân thì vị trí, vai trò, uy tín của Đảng mới được củng cố. Trong điều kiện hiện nay, để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với các thành viên khác của hệ thống chính trị mà trước hết và chủ yếu là mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước. Cần phân biệt chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức Đảng các cấp không làm thay công việc thuộc thẩm quyền của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thông qua cơ chế dân chủ do luật định, thông qua các tổ chức Đảng và đảng viên của mình hoạt động trong bộ máy nhà nước.
Đảng đặc biệt coi trọng sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc thông qua Mặt trận Tổ quốc. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến cơ sở cần tăng cường mối quan hệ mật thiết với Mặt trận, cử đại biểu của Đảng đến dự các buổi sinh hoạt của Mặt trận, lắng nghe ý kiến của các đại biểu thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp nhân dân; trình bày các chủ trương, chính sách của Đảng với Mặt trận; thực hiện tốt sự đối thoại, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa Đảng và các đoàn thể, các tổ chức, các nhân sỹ tiêu biểu trong Mặt trận Tổ quốc. Các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, tổ chức phong trào quần chúng, tham gia quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.
Đảng cần hướng sự đổi mới nội dung hoạt động của các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội vào việc đoàn kết đoàn viên, hội viên đi đôi với động viên nhân dân góp phần vào sự nghiệp chung của cách mạng. Từ việc đáp ứng những lợi ích vật chất và tinh thần một cách thiết thực, bênh vực lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên mà tạo ra sự gắn bó của họ với đoàn thể của mình nói riêng và với Đảng nói chung.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng cách: Xây dựng Cương lĩnh, đường lối chiến lược, xây dựng những mục tiêu cơ bản của cách mạng trên các lĩnh vực đối nội, đối ngoại, định hướng hoạt động cho các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị. Kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn, bổ sung và hoàn chỉnh chủ trương, đường lối, kịp thời thay đổi hoặc điều chỉnh những chủ trương chưa sát với thực tế. Nắm công tác cán bộ, chuẩn bị các cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy nhà nước; giới thiệu cán bộ cho các cơ quan dân cử và các đoàn thể quần chúng để họ bầu cử một cách dân chủ, không gò ép, áp đặt.
4. đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt: Tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương thức hoạt động. Trước mắt, Đảng chủ trương làm tốt những việc sau:
- Tiếp tục triển khai một cách tích cực và mạnh mẽ chủ trương chống tham nhũng; xử lý thật nghiêm từ trên xuống dưới những người mắc sai lầm, khuyết điểm này, bất kể người đó ở cương vị công tác nào.
- Nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, bởi vì đó chính là chiếc cầu nối liền Đảng với dân. Dân có tin Đảng hay không, mối quan hệ giữa Đảng với dân có mật thiết hay không phụ thuộc rất lớn vào các tổ chức cơ sở Đảng. Dân chỉ tin Đảng và thật sự theo Đảng khi trong hoạt động thực tiễn, các tổ chức Đảng và đảng viên ở cơ sở thật sự là tấm gương sáng để nhân dân noi theo.
- Đổi mới công tác cán bộ. Trong bối cảnh thực hiện công cuộc đổi mới và chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo, công tác cán bộ có một tầm quan trọng đặc biệt. Hiện nay, nhiệm vụ hàng đầu của công tác cán bộ là đào tạo cho được đội ngũ cán bộ thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường nhưng phải vững vàng về chính trị, trung thành với lý tưởng của Đảng; loại bỏ ngay những phần tử cơ hội, nhất là cơ hội về chính trị, lợi dụng đổi mới để tấn công vào học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng ta hòng phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định chủ nghĩa xã hội và vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, tách Đảng ra khỏi nhân dân... Ngoài ra, hết sức chú ý đào tạo, bồi dưỡng, kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ sở, vì cán bộ cơ sở là những người hàng ngày tiếp xúc với dân, đem chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống và biến thành hành động của đông đảo quần chúng. Thực tế cho thấy, ở nơi nào có đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ cốt cán vững vàng thì ở đó phong trào mọi mặt phát triển tốt.
- Nâng cao chất lượng đảng viên, bởi vì chất lượng đảng viên gắn liền với chất lượng Đảng. Muốn nâng cao chất lượng đảng viên cần xác định rõ tiêu chuẩn cụ thể của đảng viên trong giai đoạn cách mạng hiện nay là gì. Trên cơ sở những yêu cầu cụ thể ấy mà tiến hành sàng lọc đảng viên. Ai không đủ
tiêu chuẩn phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng.
- Đổi mới phong cách công tác của Đảng. Mỗi cấp ủy Đảng, mỗi tổ chức Đảng và mỗi đảng viên đều phải xây dựng một phong cách đi sâu, đi sát quần chúng, sống giản dị, chan hòa với quần chúng. Đảng viên giữ cương vị càng cao, càng phải gương mẫu về phong cách của người cộng sản. Cần bãi bỏ các các quy định, các thủ tục tạo nên sự xa cách giữa Đảng và quần chúng. Phong cách Hồ Chí Minh phải thật sự trở thành phong cách của mỗi đảng viên cộng sản Việt Nam.
(1) Nguyễn Văn Linh: “Phát huy truyền thống vẻ vang, tiếp tục xứng đáng là đội tiên phong chính trị của toàn xã hội”, Tạp chí Cộng sản, số 2-1970, tr.7.
|
Tiến Hải
(Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản)
;