Tăng cường cơ chế giám sát bảo đảm liêm chính tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

Thứ Ba, 07/02/2023, 15:08 [GMT+7]
    1. Liêm chính tư pháp là đòi hỏi khách quan và cơ bản của mọi quốc gia về một nền tư pháp trong sạch, là yếu tố quan trọng quyết định đến tính nghiêm minh, độc lập, công bằng và chất lượng, hiệu quả của một nền tư pháp. Liêm chính tư pháp là một phạm trù đạo đức, nhưng là đạo đức bắt buộc của người tiến hành tố tụng, đặc biệt là thẩm phán, là giá trị hình thành nên nhân cách, là phẩm chất cốt lõi của người Thẩm phán. Không có thẩm phán liêm chính thì cũng không có một nền tư pháp liêm chính, không có một nền tư pháp liêm chính thì công lý chỉ tồn tại trên giấy. Chính vì vậy, việc xây dựng một nền tư pháp liêm chính với đội ngũ cán bộ tư pháp liêm khiết, trung thực, giám dấn thân cho việc duy trì, bảo vệ lẽ phải và công lý, “phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc” là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay và đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng.
 
    Về mặt lý thuyết, hệ thống cơ chế giám sát nhằm bảo đảm tuân thủ liêm chính tư pháp đối với chức danh tư pháp ở nước ta tương đối đầy đủ cả về thiết chế và thể chế. Nhận thức về liêm chính tư pháp, đạo đức và quy tắc nghề nghiệp, trình độ, nghiệp vụ của các chức danh tư pháp ngày càng được nâng cao. Câu hỏi đặt ra là: Tại sao với một hệ thống cơ chế bảo đảm liêm chính tư pháp chặt chẽ đến như vậy (ở nước ta, bên cạnh chế độ kỷ luật đối với chức danh tư pháp, kỷ luật công vụ còn có kỷ luật của Đảng) nhưng vấn đề liêm chính tư pháp vẫn chưa được như mong muốn? Vẫn còn tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động tư pháp? Phải chăng là có sự chồng chéo làm giảm hiệu lực và hiệu quả của từng cơ chế? Phải chăng có nhiều cơ chế nhưng vẫn còn mang tính chất quản lý hành chính mà chưa có những cơ chế đột phá phù hợp với đặc thù của cơ quan tư pháp nước ta? Phải chăng việc thực thi cơ chế trong thực tiễn đang còn hạn chế? Chúng tôi cho rằng, trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì cả ba nguyên nhân đều cần phải được cân nhắc kỹ.
 
Đồng chí Nguyễn Công Hồng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, thành viên nhóm nghiên cứu phát biểu tại Hội thảo cơ chế giám sát nhằm đảm bảo tuân thủ liêm chính tư pháp – kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam tháng 11/2022
Đồng chí Nguyễn Công Hồng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội phát biểu tại Hội thảo cơ chế giám sát nhằm đảm bảo tuân thủ liêm chính tư pháp – kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam tháng 11/2022 (ảnh Đặng Phước)
    2. Cơ chế giám sát bảo đảm liêm chính tư pháp ở nước ta đã được thiết lập ngay từ những ngày đầu của chế độ. “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là tiêu chí hàng đầu của đạo đức công vụ mà mỗi cán bộ phải thấm nhuần và quán triệt để bảo đảm một nền hành chính trong sạch, vững mạnh với một nền tư pháp công khai, công bằng, vô tư không thiên vị. Cơ chế này là một sự tổng hợp của nhiều cơ chế khác nhau và ngày càng được hoàn thiện nhằm kiểm soát và bảo đảm tính đúng đắn của hoạt động tư pháp.
 
    Ở nước ta, cơ chế kiểm soát tính liêm chính trong hoạt động của cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp(1) có thể được phân thành: (1) Cơ chế giám sát của cơ quan dân cử, (2) cơ chế giám sát trong nội bộ cơ quan tư pháp, (3) cơ chế giám sát chéo giữa các cơ quan tư pháp và (4) cơ chế giám sát xã hội. Bên cạnh các cơ chế giám sát này, ở nước ta, vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tư pháp hết sức quan trọng, then chốt, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và cùng với các cơ chế trên tạo thành một hệ thống thống nhất kiểm soát tính liêm chính trong hoạt động của cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp.
 
    Thực tiễn cho thấy, trong những năm qua, đặc biệt là sau khi có 02 nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tư pháp(2), công tác tư pháp đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được một số thành tựu cơ bản. Công tác giám sát hoạt động tư pháp cũng được đề cao, góp phần xây dựng một nền tư pháp hiệu lực, hiệu quả, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân để tiếp cận công lý.
 
    Thời gian qua, Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội), Chủ tịch nước đã tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp như thẩm tra, xem xét các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các báo cáo của Chính phủ về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, về công tác thi hành án, công tác PCTN; chất vấn những người đứng đầu các cơ quan tư pháp; giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực tư pháp; thành lập đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, của Ủy ban Tư pháp, của Đoàn đại biểu Quốc hội để giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp tại các địa phương trong cả nước; ở địa phương, việc giám sát của HĐND đối với Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân địa phương cũng diễn ra tương tự.
 
    Nhìn chung, thông qua công tác giám sát, chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được nâng lên đáng kể; tình trạng oan, sai, sót, lọt tội phạm, tình trạng xử lý thiếu nghiêm minh cơ bản được khắc phục; tình trạng lạm quyền, lộng quyền trong lĩnh vực tư pháp từng bước được kiềm chế.
 
    Tuy nhiên, những vấn đề có liên quan đến hoạt động giám sát của cơ quan dân cử như phạm vi tiến hành giám sát, hình thức giám sát, hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát… vẫn còn nhiều nội dung chưa rõ, thiếu cơ chế thực hiện như: Pháp luật chưa phân định rõ phạm vi, thẩm quyền giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban tư pháp, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội dẫn đến chồng chéo chức năng, thậm chí chồng chéo với cả các cơ quan dân cử ở địa phương; chưa có cơ chế cụ thể đối với hoạt động giải trình (điều trần); thiếu cơ chế trong việc bảo đảm thực hiện các kết luận, kiến nghị giám sát… là những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả của hoạt động giám sát của cơ quan dân cử.
 
    Cơ chế giám sát liêm chính của cán bộ làm công tác tư pháp trong nội bộ các cơ quan tư pháp cũng được đẩy mạnh. Bên cạnh việc thực hiện nghiêm quy định về thi tuyển Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo đổi mới công tác tác thanh tra nhằm tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ, kịp thời chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tập trung kiểm tra, thanh tra đột xuất và theo chuyên đề; tăng cường tự kiểm tra. Trong đó, hoạt động giám sát đối với thẩm phán được tăng cường, thường xuyên theo dõi và xử lý kịp thời các thông tin về thẩm phán bị phản ánh trên phương tiện thông tin đại chúng. Ban cán sự đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ động rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, nhất là lãnh đạo cấp chiến lược của ngành theo phương châm “động và mở”, đồng thời, chú trọng luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ từ Viện kiểm sát nhân dân tối cao về địa phương và ngược lại nhằm đào tạo nguồn cán bộ cho Viện kiểm sát các cấp. Cơ quan điều tra đã đặc biệt quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ điều tra viên, cán bộ điều tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục bồi dưỡng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp.
 
    Đến nay đội ngũ điều tra viên, cán bộ điều tra đã có sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao. Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự đã tiến hành nhiều cuộc kiểm tra định kỳ, đột xuất, toàn diện và chuyên đề các nội dung liên quan đến việc thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ;… Bộ Tư pháp đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra hành chính, thanh tra đột xuất, thanh tra để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thi hành án dân sự địa phương. Qua thanh tra cho thấy, nhiều đơn vị đã thực hiện tương đối tốt các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, tổ chức cán bộ, quản lý, sử dụng kinh phí hành chính và tài sản công; một số thiếu sót, vi phạm đã kịp thời được chấn chỉnh, xử lý nghiêm khắc.
 
    Công tác thi hành án hình sự có sự chuyển biến về chất cả về tổ chức, bộ máy, cơ sở vật chất cũng như cơ sở pháp lý, bảo đảm sự nghiêm minh của bản án, quyết định của Tòa án, tính thống nhất của chính sách hình sự và thể hiện tính nhân đạo; kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo người phạm tội, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, thực tiễn cũng còn tồn tại những hạn chế, bất cập có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 
 
    Vấn đề quản trị Tòa án vẫn còn những bất cập. Vai trò của Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia chưa thật sự rõ ràng, chưa đạt hiệu quả cao như kỳ vọng; nhất là trong việc miễn nhiệm, cách chức thẩm phán. Là Hội đồng giám sát thẩm phán, Hội đồng phải có vai trò quyết định trong xem xét miễn nhiệm, cách chức thẩm phán để bảo vệ thẩm phán và vấn đề kỷ luật không trở thành sức ép tâm lý đối với thẩm phán trong độc lập xét xử. Ngoài ra, vẫn còn xảy ra án oan, sai do năng lực xét xử của thẩm phán, cho thấy việc xét tuyển, bổ nhiệm thẩm phán tuy đúng quy trình nhưng chất lượng vẫn còn hạn chế. Viện kiểm sát nhân dân mặc dù đã đặt ra mục tiêu và hành động trong việc giám sát cán bộ thuộc Viện kiểm sát nói chung và các kiểm sát viên nói riêng, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề làm ảnh hưởng đến sự liêm chính trong hoạt động tư pháp. Được đề cập ngay trong chính Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hiện nay vẫn còn có trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam sau phải trả tự do không xử lý hình sự; còn để xảy ra một số trường hợp oan và trả hồ sơ để điều tra bổ sung do vi phạm tố tụng; chất lượng kháng nghị các vụ án hành chính và tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm chưa đạt chỉ tiêu Quốc hội.
 
    Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy, các tồn tại trong việc giám sát của các Cơ quan điều tra. Mặc dù  ộ luật tố tụng hình sự đã quyết định việc lấy lời khai hoặc hỏi cung do điều tra viên tiến hành, các cán bộ điều tra không được thực hiện công việc này. Tuy nhiên, đã có không ít trường hợp việc lấy lời khai hay hỏi cung chỉ do cán bộ điều tra độc lập thực hiện, sau đó điều tra viên được phân công ký hợp thức hồ sơ. Việc để người chưa được bổ nhiệm điều tra viên trực tiếp tiến hành các hoạt động tố tụng không những không đúng quy định pháp luật mà còn có nguy cơ dẫn đến oan sai, hậu quả khó lường. Ngoài ra, vẫn xảy ra trường hợp mớm cung, bức cung dẫn tới sai lệch kết quả điều tra. Nguyên nhân của những vấn đề này là do trình độ pháp luật, trình độ nghiệp vụ của một số bộ phận cán bộ điều tra vẫn còn hạn chế, thậm chí cũng không loại trừ nguyên nhân do thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi.
 
    Công tác thi hành án nhìn chung vẫn còn tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục, đặc biệt còn có một số cán bộ, chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự bị khởi tố và xem xét hình sự về các tội như: Tội lợi dụng, lạm dụng chức vụ quyền hạn để chiếm đoạt, tham ô tài sản; Tội thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý, tổ chức thi hành án dân sự; Tội ra quyết định trái pháp luật; Tội nhận hối lộ; Tội đánh bạc,… Ngoài nguyên nhân chủ quan của người vi phạm thì cũng có nguyên nhân từ việc thiếu kiểm tra, đôn đốc nhất là trong công tác tài chính kế toán và quản lý tang vật của một số lãnh đạo đơn vị. Công tác tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn để xảy ra những tình trạng nhiều phạm nhân vi phạm kỷ luật, sử dụng ma túy, điện thoại di động, thậm chí phạm tội mới trong trại còn diễn biến phức tạp. 
 
    Thực tế vẫn xảy ra trường hợp cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp vi phạm phải xử lý, thậm chí có trường hợp vi phạm đến mức phải xử lý hình sự(3). Theo Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã khởi tố mới 39 vụ/43 bị can là cán bộ trong các cơ quan: Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó: 26 vụ/31 bị can về tội phạm tham nhũng, chức vụ; 10 vụ/11 bị can phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp; tội phạm khác: 03 vụ/01 bị can.
 
    3. Để hướng đến mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ(4), cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
 
    Thứ nhất, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp là yếu tố quyết định. Đây là điều kiện tiên quyết để nền tư pháp phát triển đúng hướng, bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân(5). Nội dung lãnh đạo của Đảng là toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và định hướng công tác thông qua việc định ra các nguyên tắc, quan điểm lớn làm cơ sở xây dựng tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp; vạch ra đường lối, định hướng trong các lĩnh vực hoạt động của các cơ quan tư pháp(6).
 
    Thứ hai, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị; thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ tư pháp. Có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm việc ở các cơ quan tư pháp. Chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, trong sạch, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ cơ quan tư pháp thực sự “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, nhất là người có chức danh tư pháp. Đây là yếu tố cơ bản và lâu dài nhằm tạo nguồn nhân lực có chất lượng, liêm khiết, trung thực, giám dấn thân cho việc duy trì, bảo vệ lẽ phải và công lý cho hệ thống tư pháp. Trên thực tế, những công việc này chúng ta đã và đang làm nhưng hiệu quả chưa cao. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tuyển chọn cán bộ có nơi, có lúc còn hình thức, chưa thực chất và đang có xu hướng “khép kín”. Có một nghịch lý là trong khi ở các nước như Australia, Singapo, Đan mạch,… một trong những nguồn thẩm phán có chất lượng là các luật sư giỏi thì ở nước ta đang có xu hướng thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên là nguồn nhân lực của đội ngũ luật sư. Đây là điều rất đáng được cân nhắc.
 
    Thứ ba, kết quả nghiên cứu cho thấy, một trong những nhân tố thúc đẩy các nước trong đó có Australia, Singapo, Đan mạch phải xây dựng nền tư pháp liêm chính chính là trình độ dân trí nói chung, hiểu biết và ý thức pháp luật nói riêng của người dân ở mức cao. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần có giải pháp thực chất để nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của nhân dân. Tổ chức hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật đến người dân, là một trong những giải pháp hữu hiệu để nhân dân kiểm soát quyền lực đối với hoạt động tư pháp tốt hơn. Khi hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và đông đảo người dân có kiến thức, có ý thức bảo vệ pháp luật thì mới có thể giám sát, kiểm soát hoạt động của các cơ quan tư pháp, cán bộ làm công tác tư pháp.
 
    Thứ tư, thực hiện nghiêm chế độ công khai thông tin và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của nhân dân. Kinh nghiệm các nước cho thấy, công khai, mimh bạch thông tin là yếu tố quan trọng để hạn chế tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực và tham nhũng. Ở nước ta, đây cũng là đòi hỏi khách quan và là yếu tố quan trọng để nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được thực thi trên thực tế. Đồng thời, cần có giải pháp thiết thực phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, truyền thông trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực nói chung và trong lĩnh vực tư pháp nói riêng.
 
    Thứ năm, phát triển đồng bộ hệ thống bổ trợ tư pháp, đặc biệt là luật sư, công chứng, giám định tư pháp. Luật sư, công chứng, giám định tư pháp có vai trò quan trọng trong quá trình làm rõ sự thật khách quan, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tố tụng. Sự tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) có chất lượng của luật sư, công chứng, giám định góp phần hạn chế các nhận định chủ quan, áp đặt, thiếu vô tư của người tiến hành tố tụng, qua đó, góp phần kiểm soát tính liêm chính của các chức danh tư pháp trong hoạt động tố tụng. 
 
    Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực tư pháp nói riêng. Đây là việc làm thường xuyên để bảo đảm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong từng thời kỳ, hạn chế “khoảng trống” pháp luật hoặc pháp luật không rõ ràng dễ dẫn đến vận dụng tùy tiện.
 
    Thứ bảy, cần cân nhắc nghiên cứu thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia - cơ quan quản trị hệ thống tòa án, chịu trách nhiệm về cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, đề bạt và bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật thẩm phán, chánh án tòa án các cấp, trừ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu. Chủ tịch nước làm chủ tịch Hội đồng. Thành viên của Hội đồng có thể gồm đại diện từ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Ban Nội chính Trung ương, Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Luật gia, Liên đoàn Luật sư,… có bộ máy thường trực, giúp việc cho Hội đồng. Thiết chế này sẽ giúp phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tư pháp, tạo điều kiện để tòa án tập trung vào công tác xét xử, thực hiện tốt nguyên tắc độc lập xét xử.
 
    Thứ tám, sửa đổi, bổ sung Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử theo hướng tăng cường giám sát việc chấp hành pháp luật của các chức danh tư pháp; giám sát công tác chống tham nhũng trong hoạt động tư pháp; giám sát các cơ quan trong việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát; xác định rõ trách nhiệm của các đối tượng được giám sát trong việc thực hiện các kết luận giám sát; có chế tài xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm. Sự kiểm soát của Quốc hội đối với hoạt động của cơ quan tư pháp về lâu dài chỉ nên tập trung vào giám sát trách nhiệm chính trị, theo đó, quy định rõ nội dung giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào (1) việc thực hiện pháp luật và (2) việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; (3) việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tư pháp; (4) về trách nhiệm giải trình của các chủ thể liên quan trước Quốc hội về hoạt động của các cơ quan tư pháp; (5) về sử dụng ngân sách của các cơ quan tư pháp. Điều chỉnh quy định thẩm quyền giám sát, hình thức giám sát, nội dung giám sát sao cho phù hợp với khả năng và điều kiện thực hiện của một số chủ thể thực hiện quyền giám sát, như: Thẩm quyền giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, Đoàn đại biểu Quốc hội... Đồng thời, cần bổ sung các quy định pháp luật để xác lập các điều kiện, tiêu chí, yêu cầu về phạm vi giám sát đối với các vụ án cụ thể để bảo đảm tính khả thi, chặt chẽ, phù hợp của hoạt động xét xử.
 
    Thứ chín, hoàn thiện cơ bản thể chế pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư, trong đó có việc sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư năm 2012 nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư, quy định chặt chẽ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề luật sư, phạm vi hành nghề luật sư, tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề, đặc biệt là việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để luật sư có thể tham gia sớm hơn trong tố tụng hình sự vì sự tham gia này chính là kênh kiểm soát đối với hoạt động của người tiến hành tố tụng. Bổ sung quy định “việc hỏi cung phải có người bào chữa tham gia, trừ trường hợp người bị hỏi cung từ chối” nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển đội ngũ luật sư, đồng thời là yếu tố quan trọng ngăn ngừa bức cung, nhục hình, vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng hình sự.
 
    Thứ mười, thiết chế Mặt trận - khối đoàn kết của các lực lượng xã hội cũng là một nét đặc thù trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta. Mặt trận đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong lịch sử dựng nước và giữ nước là nhân tố quan trọng trong tập hợp lực lượng, hóa giải bất đồng, xây dựng khối đại đoàn kết vì mục tiêu chung. Do vậy, trong tiến trình xây dựng một nền tư pháp liêm chính “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, cần xác định đúng vai trò của Mặt trận để phát huy hiệu quả vai trò giám sát xã hội. Trong đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam theo hướng tăng cường năng lực giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc đối với các hoạt động tố tụng, các hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc và hoàn thiện cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Mặt trân tổ quốc với các tổ chức thành viên trong hoạt động giám sát các chức danh tư pháp góp phần bảo đảm tính liêm chính trong hoạt động tư pháp. 
 
    (1) Theo pháp luật hiện hành có 04 (bốn) nhóm chủ thể chính thực hiện chức năng chủ yếu trong hoạt động tư pháp bao gồm Thẩm phán (người xét xử), Kiểm sát viên (bên buộc tội, đại diện lợi ích công), Điều tra viên (người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra hình sự), Quản giáo (Thi hành án hình sự) và Chấp hành án viên (Thi hành án dân sự).
    (2) Nghị quyết số 08 NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 
    (3) Theo Báo cáo thẩm tra số 1289/BC-UBTP15 của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội ngày 18/10/2022, tính đến ngày 30/9/2022: Có 31 trường hợp cán bộ, công chức thi hành án vi phạm bị xử lý kỷ luật; có 04 trường hợp vi phạm phải chuyển xử lý hình sự; có 22 bị can là cán bộ Công an bị khởi tố; có 40 công chức Viện kiểm sát nhân dân vi phạm pháp luật bị xử lý kỷ luật. Các Tòa án đã xử lý kỷ luật 33 công chức có hành vi vi phạm và có 03 trường hợp đang bị xử lý hình sự.
    (4) Nghị quyết số 49, Mục II.1.3.
    (5) PGS. TS. Ủy viên Bộ Chính trị, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong chiến lược cải cánh tư pháp”, Tạp chí Cộng sản 13/12/2019.
    (6) TS. Nguyễn Văn Quyền, Chủ tịch hội luật gia Việt Nam: “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, Tạp chí Cộng sản 19/01/2007.
Nguyễn Công Hồng
(Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban tư pháp Quốc hội)
.