Giá trị phổ quát và đặc thù trong các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Thứ Tư, 25/01/2023, 03:42 [GMT+7]
    Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27) vừa được ban hành ngày 09/11/2022. Đây là Nghị quyết chuyên đề của Đảng về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, theo đó, 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được ghi nhận. Việc khẳng định các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam thể hiện tư duy mới, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trong đổi mới hệ thống chính trị, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong định hướng lý luận nhận thức cũng như giúp xác định rõ mục tiêu cần đạt được trong xây dựng, hoàn thiện mô hình, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và mối quan hệ giữa các thiết chế trong bộ máy nhà nước, là cơ sở để giải quyết tốt mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, mối quan hệ Nhà nước, thị trường và xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước nhanh, bền vững trong tình hình mới.
 
    1. Tư tưởng pháp quyền được hình thành từ rất sớm, từ khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ V trước công nguyên ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, với cốt lõi là đề cao vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước, thừa nhận và bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Chính vì pháp quyền gắn với nhà nước nên cùng với các tư tưởng, học thuyết về pháp quyền đã hình thành tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền, xuất hiện đầu tiên trong quan điểm của các nhà triết học cổ điển Đức từ giữa thế kỷ XVIII, nhưng xét về bản chất, đều tập trung giải quyết mối quan hệ nhà nước - pháp luật - quyền con người. Trải qua quá trình lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng, học thuyết về nhà nước pháp quyền được bổ sung, hoàn thiện thông qua nghiên cứu lý luận và đúc kết thực tiễn. Ngày nay, pháp quyền đã trở thành một trong những nguyên tắc phổ biến của quản trị nhà nước, gắn với việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước và mang lại thành công cho nhiều quốc gia trên thế giới.
 
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương truyền đạt chuyên đề tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Đồng chí Phan Đình Trạc, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
    Về bản chất, nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước trên cơ sở thượng tôn hiến pháp và pháp luật, nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của Nhà nước, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Những giá trị, đặc trưng phổ quát của nhà nước pháp quyền đã được công nhận rộng rãi, gồm: Khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; đề cao vai trò của hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý; có hệ thống pháp luật công bằng, công khai, minh bạch, dễ tiếp cận, được thực hiện kịp thời, nghiêm minh và nhất quán; quyền lực nhà nước được phân công và kiểm soát chặt chẽ; bảo đảm độc lập của quyền tư pháp. Các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được nghiên cứu, xây dựng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng nhà nước dân chủ và chế độ XHCN, được thể hiện trong Cương lĩnh, Nghị quyết, Hiến pháp qua các thời kỳ; đồng thời, có sự tiếp nhận, vận dụng phù hợp, sáng tạo những đặc trưng phổ biến của nhà nước pháp quyền nêu trên.
 
    2. Có 02 đặc trung của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam thể hiện rõ tính đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam, đó là: “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” và “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
 
    08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là: (1) Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; (2) Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (3) Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; (4) Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; (5) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; (6) Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; (7) Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; (8) Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

    Ở các quốc gia có chế độ chính trị đa đảng, các đảng phái cạnh tranh, thuyết phục người dân lựa chọn, bầu đại diện của đảng mình vào các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước và thay phiên nhau cầm quyền, lãnh đạo đất nước nếu thắng cử; quyền lực nhà nước được phân nhánh rõ rệt, có sự cân bằng giữa ba quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ở Việt Nam, lịch sử đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Mục đích, tôn chỉ hoạt động của Đảng hoàn toàn phù hợp với những giá trị phổ quát, tiến bộ của nhà nước pháp quyền, đã được khẳng định nhất quán trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Do vậy, “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” là đặc trưng cơ bản, đồng thời, cũng là nguyên tắc, quan điểm nhất quán, xuyên suốt, là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là nền tảng vững chắc trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

    Dưới sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất của Đảng, quyền lực nhà nước được tổ chức và vận hành thống nhất, dựa trên nguyên tắc: Tất cả quyền lực  nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy thác. Trong tổ chức bộ máy của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cũng hình thành ba nhánh quyền lực như mô hình tổ chức quyền lực nhà nước phổ biến trên thế giới: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Tuy nhiên, sự tương quan giữa các nhánh quyền lực ở Việt Nam có điểm đặc thù rất rõ nét. Trong đó, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, đồng thời là cơ quan chấp hành của Quốc hội; Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; đại biểu Quốc hội do cử tri cả nước bầu ra, nhưng những người đứng đầu của ba cơ quan này, gồm Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đều do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm. Cơ cấu tổ chức này đã hình thành trên thực tế cơ chế kiểm soát khá chặt chẽ, hiệu quả của cơ quan lập pháp đối với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
 
    Tuy nhiên, ở các hướng còn lại, kết quả tổng kết thực tiễn cho thấy, vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp; của cơ quan tư pháp đối với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp chưa thực sự hiệu quả. Đặc trưng này đòi hỏi cần tiếp tục có những nghiên cứu sâu sắc, thấu đáo, toàn diện để có được giải pháp phù hợp, bảo đảm cho quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức, vận hành đúng đắn, hiệu quả. Do vậy, Nghị quyết số 27 của Trung ương đặt ra nhiệm vụ: “Quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp”; đồng thời, mở rộng và nhấn mạnh các kênh giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và của nhân dân. Nghị quyết yêu cầu: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả các cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng, Nhà nước và nhân dân”; trong đó, phải: “Hoàn thiện cơ chế để nhân dân trực tiếp kiểm soát quyền lực nhà nước”; cùng với đó, phải gắn kiểm soát quyền lực từ bên ngoài với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt, Nghị quyết số 27 đã xác lập nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước, được đúc kết từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong công tác đấu tranh PCTN, TC thời gian qua: “Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý”.
 
    3. Trong 06 đặc trưng còn lại của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, nội dung, cách diễn đạt vừa chứa đựng những giá trị phổ quát, tiến bộ của Nhà nước pháp quyền trên thế giới, đồng thời, có sự cá biệt hóa, thể hiện đúng tư tưởng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta về nhà nước XHCN. Cụ thể:
 
    - Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đây là đặc trưng thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước. Các tư tưởng, học thuyết về nhà nước đều chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ quyền lực của nhân dân, mọi chế độ chính trị muốn tồn tại, phát triển đều phải tổ chức và vận hành có hiệu quả quyền lực mà nhân dân giao phó, ủy thác; khi một nhà nước không nhận được sự ủng hộ của đa số các giai tầng trong xã hội thì sớm hay muộn sẽ dẫn đến sụp đổ. Chủ quyền của nhân dân đối với quyền lực nhà nước đặt ra trách nhiệm của Nhà nước trên hai phương diện: Một là, Nhà nước phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền công dân, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện đầy đủ, hiệu quả quyền của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; hai là, mọi quyết sách của Nhà nước phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, phản ánh đúng đắn, đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Bản chất dân chủ của Nhà nước phải được thể hiện ở chủ trương, chính sách, pháp luật; đồng thời, được thực hiện, thi hành hiệu quả trên thực tế. Thiếu một trong hai điều kiện này đều không bảo đảm dân chủ thực chất. Tính nhân dân của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được thể hiện đầy đủ, toàn diện, có tính khái quát cao trong toàn bộ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 27, trên cơ sở kế thừa nội dung các văn kiện của Đảng và Hiến pháp, trong đó nhấn mạnh: “Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Tổng kết việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của nhân dân”. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, Nghị quyết khẳng định: Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân; cần hoàn thiện cơ chế để tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
 
    - Quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là đặc trưng phổ quát của Nhà nước pháp quyền, được hình thành rất sớm trong lịch sử tiến hóa nhà nước với sự thừa nhận các quyền cơ bản (hay còn gọi là quyền tự nhiên) của con người, như quyền được sống, được bình đẳng, được tự do mưu cầu hạnh phúc, được pháp luật bảo đảm, bảo vệ… Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người năm 1948, các công ước quốc tế của Liên hợp quốc năm 1966 về các quyền dân sự và chính trị và về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đều hướng trách nhiệm nhà nước vào việc tạo lập môi trường đầy đủ và thuận lợi nhất cho việc thực hiện trên thực tế quyền con người, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc hạn chế bất hợp pháp quyền con người, đề cao công bằng và bình đẳng, chống mọi biểu hiện phân biệt đối xử về quyền và sự bất công dựa trên chủng tộc, tôn giáo, giới tính.
 
    Trong nhà nước pháp quyền, quyền con người, quyền công dân được xác lập về mặt pháp lý, trở thành giới hạn của việc xác định và thực thi quyền lực của Nhà nước. Vì vậy, “công dân có thể làm tất cả những gì pháp luật không cấm, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật quy định” được coi là một trong những nguyên tắc cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Tinh thần này đã được Trung ương đưa vào Nghị quyết số 27 thành một nguyên tắc quan trọng để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là lấy con người làm trung tâm, bảo đảm quyền con người và phát triển con người toàn diện. Tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân gắn với nhiệm vụ của Nhà nước, của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội trong việc giáo dục ý thức và trách nhiệm đối với quyền con người, quyền công dân; gắn yêu cầu bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân với các hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật; xác định nhiệm vụ bảo vệ quyền con người là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng của bộ máy nhà nước. Đồng thời, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân phải gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; “việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”(1).
 
    - Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đây là đặc trưng cốt lõi, nền tảng của nhà nước pháp quyền. Hiến pháp là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nền dân chủ và nhà nước pháp quyền, thể hiện ý chí và lợi ích của nhân dân, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, tôn trọng, thực hiện, bảo vệ sự tôn nghiêm của Hiến pháp, giám sát tính hợp hiến trong các hoạt động quyền lực nhà nước là quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi thiết chế nhà nước, tổ chức và công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là quan điểm xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, được thể chế hóa, cụ thể hóa và thực hiện ngày càng đầy đủ, chặt chẽ. Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 tuyên bố: “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”; Điều 119 của Hiến pháp quy định: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”; “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm  bảo vệ Hiến pháp”; “Cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định”.
 
    Từ đó, Nghị quyết số 27 của Trung ương đặt ra nhiệm vụ: Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp; đưa nội dung phù hợp về Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng của hệ thống giáo dục quốc dân. Nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật. Đồng thời, để tăng cường trách nhiệm của tổ chức đảng và đảng viên, Nghị quyết yêu cầu hoàn thiện cơ chế để “bảo đảm các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, thực sự gương mẫu, đi đầu trong việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật”.
 
    - Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Toàn bộ các tiêu chuẩn, tiêu chí về nội dung và hình thức của hệ thống pháp luật và cách thức thực hiện pháp luật trong đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là sự tích hợp đầy đủ những giá trị tiến bộ, chuẩn mực của pháp luật hiện đại, bảo đảm cho pháp luật trở thành cơ sở, nền tảng, khuôn khổ cho mọi hoạt động trong xã hội, để công bằng, công lý được thực thi, để quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả. Hệ thống pháp luật phải hướng tới hệ các giá trị cụ thể, đó là: Pháp luật dân chủ là pháp luật bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; pháp luật công bằng là pháp luật bảo đảm sự bình đẳng của mọi chủ thể trước pháp luật; pháp luật nhân đạo là pháp luật kết hợp hài hòa giữa giáo dục và trừng trị, hướng tới con người, quan tâm bảo vệ các nhóm đối tượng yếu thể, dễ bị tổn thương; pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất là pháp luật không có kẽ hở, khoảng trống, không chứa đựng mâu thuẫn, xung đột, điều chỉnh một cách toàn diện, nhất quán mọi quan hệ xã hội, mọi lĩnh vực đời sống xã hội; pháp luật kịp thời, khả thi là pháp luật được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn; pháp luật công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận giúp cho đối tượng điều chỉnh có điều kiện thuận lợi để nhận thức rõ và thực hiện đúng yêu cầu của pháp luật.
 
    Hệ thống pháp luật với tất cả những giá trị tiến bộ, chuẩn mực nêu trên phát huy tác dụng trong thực tiễn khi và chỉ khi được thực hiện nghiêm minh và nhất quán. Điều này đòi hỏi phải coi trọng công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, chế tài phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; các vụ việc có tình tiết tương tự nhau phải được xử lý theo cách thức và hệ quả pháp lý tương tự nhau. Để đạt được giá trị đặc trưng này, Nghị quyết số 27 của Trung ương đề ra nhiều giải pháp mới trong xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật, điển hình như: Đa dạng hóa nguồn pháp luật; tăng cường xây dựng các đạo luật có nội dung cụ thể, hiệu lực trực tiếp; kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm” trong công tác xây dựng pháp luật; xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân và doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với thực hiện pháp luật; hoàn thiện các quy định về giải thích pháp luật; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; phát triển nguồn nhân lực pháp luật, hiện đại hoá phương thức, phương tiện xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật…
 
    - Độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đây là một đặc trưng vừa mang giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền về tính độc lập của quyền tư pháp, vừa đặt sự độc lập của quyền tư pháp trong giới hạn của cách thức tổ chức, vận hành quyền lực nhà nước của Việt Nam. Theo quan điểm nhà nước pháp quyền phổ biến, độc lập của quyền tư pháp (independence of judicial power) hay độc lập tư pháp (judicial independence) được hiểu đồng nhất với độc lập của tòa án, do tòa án được xác định là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp. Nội hàm độc lập của quyền tư pháp (hay độc lập tư pháp) phổ biến được hiểu ở ba mức độ: (1) Vị trí độc lập trong tương quan với quyền lập pháp và quyền hành pháp; (2) độc lập giữa các tòa án bên trong hệ thống tòa án; (3) độc lập của thẩm phán khi xét xử. Đây là điều kiện để bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân, duy trì và bảo vệ công lý.
 
    Căn cứ quy định của Hiến pháp năm 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” (Khoản 1, Điều 102) và “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Khoản 2, Điều 103), Nghị quyết số 27 của Trung ương xác định rõ độc lập của quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chính là độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; độc lập của tòa án được đặt trong khuôn khổ quyền lực nhà nước là thống  nhất, do Đảng lãnh đạo. Từ đó, Nghị quyết tiếp tục đề ra hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp về cải cách tư pháp vừa cấp thiết, vừa có tính chiến lược, nhất là các nhiệm vụ, giải pháp về tiếp tục hoàn thiện tổ chức, bộ máy của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, cơ quan Thi hành án và các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Điển hình như: Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử; tăng cường kiểm soát bên trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động xét xử phù hợp với nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tiếp tục rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam...
 
    - Tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trong lý thuyết về nhà nước pháp quyền nói chung, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công bằng, công lý, tinh thần thượng tôn pháp luật là những giá trị mang tính phổ quát, các tiêu chí cụ thể được thể hiện trong các văn kiện của Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi. Các quốc gia trên cơ sở điều kiện kinh tế - chính trị cụ thể của mình, chủ động tham gia và cam kết thực hiện ở mức độ phù hợp.
 
    Trong 05 quan điểm của Nghị quyết số 27 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, tầm quan trọng, sự cần thiết phải thiết lập mối quan hệ gắn kết, chặt chẽ giữa các phạm trù: Thực tiễn đất nước - xu thế phát triển của thời đại; thành tựu trong nước - kinh nghiệm quốc tế; sức mạnh dân tộc - sức mạnh thời đại; sức mạnh quốc gia - sức mạnh quốc tế tiếp tục được khẳng định, thể hiện sự nhất quán trong đường lối phát triển đất nước của Đảng trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng. Điểm đặc biệt là, từ quan điểm này, Nghị quyết số 27 đưa cam kết tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia thành một trong 08 đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây có thể coi là một luận điểm mới của Đảng ta về nhà nước pháp quyền hiện đại, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế trong thời đại ngày nay.
 
    Với đặc trưng này, Đảng ta khẳng định, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam không chỉ là vấn đề tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước trong phạm vi quốc gia, mà đòi hỏi các mục tiêu, giá trị pháp quyền mà chúng ta hướng tới phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, ủng hộ; đồng thời, thể hiện trách nhiệm đóng góp tích cực của Việt Nam vào việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự quốc tế, vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên toàn thế giới.
 
    (1) Khoản 4, Điều 15 Hiến pháp năm 2013.
TS. Nguyễn Cảnh Lam
(Ban Nội chính Trung ương)
 
.