Kết quả bước đầu và điểm mới trong nhận thức, hành động của Đảng ta về phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Thứ Hai, 27/12/2021, 14:22 [GMT+7]

    Những năm qua, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng đã và đang được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ. Bên cạnh những kết quả, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Bài viết khái lược một số kết quả bước đầu của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về công tác xây dựng Đảng, đồng thời, nêu những điểm mới quan trọng trong nhận thức, hành động của Đảng ta về phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 

    1. Công tác xây dựng Đảng luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Từ thực tiễn những năm qua, Đảng ta khẳng định một trong những bài học kinh nghiệm quyết định sự vững mạnh của Đảng, đó là “công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ"(1)“Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ XHCN”(2).

    Cùng với việc thực hiện công tác xây dựng Đảng tại các nghị quyết Đại hội Đảng, trong thời gian qua, Đảng đã ban hành nhiều văn bản quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, điển hình như: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 26/6/1992 của Hội nghị Trung ương 3 khóa VII về nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 02/02/1999 của Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Hội nghị Trung ương 4, khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

    Nhìn lại kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng hơn năm năm qua, có thể thấy, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã quy định tương đối cụ thể, đầy đủ và hệ thống về 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy, tổ chức đảng, bước đầu tạo được chuyển biến tích cực về nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhiều cán bộ, đảng viên đã chủ động, nêu cao trách nhiệm, nhìn thẳng vào yếu kém, khuyết điểm, tự giác nhận diện mức độ biểu hiện suy thoái của bản thân và kịp thời đề ra giải pháp khắc phục, sửa chữa; đồng thời, phát hiện, góp ý cho cán bộ, đảng viên khắc phục, sửa chữa khuyết điểm. Tỷ lệ người dân đánh giá công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã đạt kết quả “đáng phấn khởi”, tăng từ 39% cuối năm 2016 lên 61% tại thời điểm khảo sát sáu tháng đầu năm 2021(3).

    Từ khi ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, có thể khẳng định, các cấp ủy, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm; triển khai nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên được nâng lên; nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình. Xử lý kịp thời, nghiêm minh, khách quan cán bộ, đảng viên vi phạm; tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự ủng hộ của nhân dân; góp phần nâng cao chất lượng tổ chức đảng, đảng viên; thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
 
    Từ năm 2016-2020, có 25.104 đảng viên suy thoái hoặc có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (chiếm 0,5% tổng số đảng viên) bị xử lý kỷ luật, trong đó, 15.101 đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống, chiếm 60%; 8.281 đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, chiếm 33%; 1.722 đảng viên biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chiếm 6,9%(4)Về suy thoái tư tưởng chính trị, số đảng viên bị xử lý kỷ luật tập trung vào nhóm hành vi không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả. Về suy thoái đạo đức, lối sống, tập trung vào nhóm hành vi đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín, dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội. Gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên… Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn câu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
 
    Về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tập trung vào nhóm hành vi nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận thành quả cách mạng, thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
 
    Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Cơ chế kiểm soát quyền lực, chế tài xử lý vi phạm chưa cụ thể, hiệu quả thực thi thấp. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
 
    2. Trên cơ sở kết quả 05 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, ngày 25/10/2021, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong tình hình mới, Kết lụân số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã bổ sung một số điểm mới quan trọng, là:

    Thứ nhất, mở rộng phạm vi, không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phạm vi thực hiện không chỉ đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, mà còn cả các cơ quan nhà nước, những cơ quan thực thi pháp luật, những đối tượng có chức, có quyền, những nơi có nhiều đặc quyền, đặc lợi, kể cả các cơ quan có chức năng PCTN, tiêu cực và đội ngũ công chức, viên chức Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và thành viên, đoàn viên, hội viên của các tổ chức này. Đây là bước tiến rất quan trọng trong nhận thức và hành động của Đảng ta, bởi lẽ, nếu như Hội nghị Trung ương 4 khóa XI mới chỉ tập trung bàn và ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” và Hội nghị Trung ương 4 khóa XII tiến thêm một bước quan trọng, có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, thì đến Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đã mở rộng phạm vi “xây dựng, chỉnh đốn cả hệ thống chính trị”. Việc mở rộng nội dung và phạm vi ra toàn hệ thống chính trị, thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh PCTN, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh cũng trở nên toàn diện và đồng bộ hơn. Trên phương diện lý luận, thực tiễn, cũng như quy định của Hiến pháp nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có cả hệ thống chính trị. Nguyên tắc là, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh sẽ khẳng định sức mạnh và vai trò lãnh đạo của Đảng. 

    Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị với đảng viên phần lớn hạt nhân lãnh đạo. Do vậy, đặt vấn đề mở rộng phạm vi xây dựng, chỉnh đốn Đảng ra cả hệ thống chính trị là vấn đề vừa có tính nguyên tắc, vừa là phương pháp luận lãnh đạo quan trọng của Đảng ta. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng gắn liền với sự trong sạch, vững mạnh của cả hệ thống chính trị.

    Thứ hai, cùng với ngăn chặn, đẩy lùi, phải chủ động tiến công mạnh mẽ, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, là bước đột phá mới, cấp độ cao hơn, cường độ và mức độ quyết liệu hơn, thái độ xử lý nghiêm khắc hơn. Thực tế thể hiện rằng, đến nay, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra từ năm 1994, tại Đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VI vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn, đó là tụt hậu xa về kinh tế, chệch hướng XHCN, tham nhũng, quan liêu và “diễn biến hòa bình”. Trong đó, “diễn biến hòa bình” là chiến lược phản cách mạng của các thế lực thù địch nhằm thay đổi, chuyển hóa cơ sở tư tưởng, cơ sở giai cấp xã hội và thể chế chính trị của chế độ nhà nước XHCN, hướng các nước XHCN đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, trước hết và chủ yếu bằng các biện pháp, phương tiện, lực lượng phi quân sự. Khi đặt vấn đề nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, Đảng ta nêu ra và đề cao những nhân tố khách quan, yếu tố bên ngoài đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.

    Tuy nhiên, từ Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta nhấn mạnh nhân tố chủ quan, yếu tố bên trong, những vấn đề thuộc về nội tại cán bộ, đảng viên vững mạnh hay suy yếu mới là vấn đề quan trọng, quyết định đến sự vững mạnh hay đe dọa sự tồn vong, suy yếu của chế độ cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Nhân tố chủ quan chủ yếu bắt nguồn từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm... 

    Trong thời gian tới, Đảng ta đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa việc xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, chú trọng kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm gắn với xử lý trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra vi phạm, tham nhũng, tiêu cực, như: Tổ chức cán bộ, quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên, tài chính, tài sản công, đầu tư công, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, hải quan, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...; tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng, kéo dài, nổi cộm, bức xúc, dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Thực hiện nghiêm Quy định về những điều đảng viên không được làm. Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diến biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm những điều đảng viên không được làm ngay tại cơ sở, chi bộ, không để sự việc kéo dài, né tránh, “đùn đẩy” lên cấp trên. 

    Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII).

    Thứ ba, kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Việc “xây” thể hiện trên nhiều nội dung khác nhau, trong đó cần chú trong xây dựng hệ thống quy chế, quy định của Đảng theo hướng siết chặt kỷ luật, kỷ cương đối với cán bộ, đảng viên, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật, từng bước hạn chế những sơ hở, bất cập, thiếu sót, mà từ đó cán bộ, đảng viên suy thoái có thể lợi dụng để thực hiện hành vi sai phạm. Đồng thời, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nêu gương người tốt, việc tốt. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có trình độ, năng lực, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc “chống” phải làm sao để phát hiện sai phạm từ sớm, từ xa, xử lý ngay từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm, sai phạm lớn. Khi đã phát hiện được thì phải xử lý nghiêm, kịp thời theo đúng các quy định hiện hành, bảo đảm nguyên tắc nghiêm trị đối với những sai phạm có động cơ vụ lợi, là những người chủ mưu, tổ chức, cầm đầu… khoan hồng với những người nhận thức được sai phạm, tích cực khắc phục sửa chữa, sai phạm trong điều kiện bị lệ thuộc, ép buộc, không có động cơ vụ lợi… “Xây” tốt thì hạn chế được sai phạm để không phải “chống”, mặt khác, “chống” phải rút ra những bài học kinh nghiệm, phát hiện những sơ hở, bất cập để đề ra giải pháp “xây”, đồng thời sự cảnh tỉnh, răn đe của việc “chống” cũng chính là “xây”… sự kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống” chính là ở những điểm này.

    Thứ tư, yêu cầu cao về đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, “lợi ích nhóm”, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân. Trong thời gian qua, tự phê bình và phê bình, việc “tự soi”, “tự sửa” của một số tập thể, cá nhân còn hình thức; có nơi vẫn còn biểu hiện “chạy theo thành tích”, phô trương, che dấu khuyết điểm; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra, thậm chí có biểu hiện xu nịnh, lấy lòng nhau hoặc chỉ trích phê phán người khác với động cơ không trong sáng; một số cấp ủy chưa chỉ đạo quyết liệt, dứt điểm việc khắc phục yếu kém, khuyết điểm… Từ thực tế đó, lần này Trung ương yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình trong nội bộ, có biện pháp để phòng ngừa và tự giác khắc phục khuyết điểm, hạn chế; kiên quyết khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”, chạy theo thành tích, đơn giản, hình thức trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Phải thường xuyên theo dõi, gợi ý kiểm điểm cấp dưới, cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để kịp thời chỉ đạo kiểm điểm, xử lý, giúp đỡ và kiểm tra, giám sát việc khắc phục khuyết điểm của tập thể, cá nhân.

    Việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình cần được chuẩn bị thật chu đáo, chỉ đạo tỉ mỉ, chặt chẽ, tiến hành nghiêm túc, thận trọng, làm đến đâu chắc đến đó, đạt kết quả cụ thể, thực chất. Kiên quyết khắc phục tình trạng quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân, tiếp tục hoàn thiện cơ chế nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy đảng về công tác cán bộ. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải tăng cường trách nhiệm giải trình, thực hiện nghiêm quy định của Đảng, Nhà nước về tiếp, đối thoại với dân; tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, khiếu kiện nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

    Thứ năm, bổ sung, nhấn mạnh thêm nhóm nhiệm vụ, giải pháp về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân, luôn đặt lợi ích của tập thể, lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết. Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn ý thức đầy đủ về trách nhiệm, “đúng vai, thuộc bài”, thực sự chuyên nghiệp, làm tốt nhiệm vụ được giao, phải gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Thực hiện tốt chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. 

    Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm mà không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Tuyệt đối tránh tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, tiêu cực. Thực hiện thí điểm một số chủ trương như: Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình, bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.

    (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, H.2021, t.1, tr.26.
    (2) Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
    (3) Báo cáo số 18-BCĐT/DLXH, ngày 03/02/2020 và Báo cáo số 07-BCĐT/LXH, ngày 10/8/2021 của Viện Dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương.
    (4) Báo cáo số 21-BC/BCĐ, ngày 24/10/2021 của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án Trung ương 4 khóa XIII.

TS. Nguyễn Xuân Trường
(Ban Nội chính Trung ương)

.