Xây dựng đội ngũ cán bộ - "then chốt của then chốt" trong công tác xây dựng Đảng

Chủ Nhật, 01/05/2022, 06:28 [GMT+7]
    Theo V.I. Lênin: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. (...) đó là then chốt; nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”(1) .
 
    Hồ Chí Minh cũng đã chỉ dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
 
    Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là trong bối cảnh tăng cường giao lưu, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đến nay công tác cán bộ của Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng. Đảng đã xây dựng, bổ sung, hoàn thiện và ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kết luận về cán bộ và công tác cán bộ. Quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch và dân chủ hơn. Việc đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức được quan tâm hơn, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
 
    Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng đã ban hành hàng loạt các quy định mang tính đồng bộ về công tác cán bộ, trong đó chú trọng vào việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nổi bật là Quy định số 55-QĐ/TW của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhấn mạnh việc phải kịp thời chấn chỉnh tác phong công tác, lối sống xa hoa, lãng phí gây phản cảm trong xã hội và gương mẫu thực hiện nếp sống văn minh, giản dị, tiết kiệm; Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, chỉ rõ 8 nội dung các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện và 8 nội dung phải nghiêm khắc vối bản thân và kiên quyết chống; đồng thời, yêu cầu cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu...
 
    Xây dựng đội ngũ cán bộ, những vấn đề đặt ra  
 
    Thứ nhất, trình độ chuyên môn và năng lực lãnh đạo của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
 
    Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít cán bộ khi thực hiện nhiệm vụ, giải quyết công việc ngay từ cấp cơ sở đã không đáp ứng được yêu cầu. Vì trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ còn hạn chế; hiểu biết về chính sách, chế độ thiếu đầy đủ, sâu sắc... dẫn đến việc đánh giá không đúng tình hình, thiếu biện pháp xử lý kịp thời, khiến cho cho nhân dân mất niềm tin, đồng thời tạo sơ hở cho những kẻ cơ hội lợi dụng kích động, làm phức tạp thêm tình hình.
 
    Sự yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn của cán bộ không chỉ làm ảnh hưởng tới chất lượng công việc của từng cá nhân, từng bộ phận công tác mà còn kéo giảm chất lượng hoạt động của cả hệ thống chính trị. Cũng vì yếu kém về năng lực mà dẫn đến phong cách làm việc thiếu khoa học, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu sự gắn bó phối hợp chặt chẽ trong công tác...
 
    Thứ hai, sự sa sút về ý thức chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm ảnh hưởng đến xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
 
    Một số cá nhân sau khi được giao những nhiệm vụ công tác quan trọng hoặc được đề bạt, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo lại bị “mắc” vào “căn bệnh” quan liêu, tham nhũng. Những cám dỗ quyền lực, lợi ích, vật chất... đã khiến họ tha hóa biến chất - xuống cấp về đạo đức, sa sút về ý thức chính trị, quên đi trách nhiệm trước nhân dân, coi thường pháp luật, bất chấp những quy định của Đảng, Nhà nước, quay lưng lại với quyền lợi của số đông. Đây không thể đổ lỗi hoàn toàn cho cơ chế mà nguyên nhân chính là do cá nhân những cán bộ này thiếu rèn luyện, tu dưỡng.
 
    Việc một số cán bộ, đảng viên mắc phải sai phạm trong quản lý kinh tế, tham ô, tham nhũng thời gian qua, có một phần nguyên nhân do công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên làm chưa thật tốt, chưa thật hiệu quả. Bên cạnh đó là thiếu sự kiểm soát hữu hiệu của cấp trên; cơ chế kiểm tra, giám sát còn hình thức, “cưỡi ngựa xem hoa”; mức độ răn đe, xử lý thiếu kịp thời. Một số địa phương, vì đội ngũ cán bộ có tư tưởng bè cánh, cục bộ, địa vị nên nảy sinh mâu thuẫn; công tác phê bình, tự phê bình, đấu tranh giải quyết, xử lý mâu thuẫn thiếu kịp thời, không thẳng thắn đã dẫn đến những hệ lụy trong xây dựng đội ngũ cán bộ.
 
    Thứ ba, điều kiện làm việc và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ ở nhiều nơi, nhiều khu vực, lĩnh vực chưa đảm bảo để họ hết lòng vì công việc.
 
    Chế độ, chính sách cán bộ, nhất là tiền lương, nhà ở nhìn chung chưa phù hợp, chậm đổi mới, còn nặng về khuyến khích cán bộ phấn đấu phát triển theo chức vụ lãnh đạo, quản lý mà ít quan tâm tạo động lực để cán bộ phấn đấu theo con đường nâng cao chuyên môn. Thực tế này đặt ra cho Đảng, Nhà nước cần nghiên cứu đổi mới chế độ đãi ngộ phù hợp, làm sao tiền lương của cán bộ thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của họ và đủ đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ yên tâm với nhiệm vụ.
 
    Thứ tư, hiện tượng mất đoàn kết trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.
 
    Do mất đoàn kết nội bộ vì bất đồng quan điểm, vì không công bằng trong phân chia lợi ích, vì cám dỗ quyền lực, vật chất... nên một số cán bộ, đảng viên đã đấu đá lẫn nhau dẫn đến vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng. Vì bị xử lý kỷ luật nên có người bất mãn, lợi dụng dân chủ để tuyên truyền, kích động gây mâu thuẫn, xung đột trong công tác, mất đoàn kết kéo dài. Mất đoàn kết nội bộ là một trong những nguyên nhân gây ảnh hướng rất lớn đến xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu.
 
    Thứ năm, những tác động của quá trình chuyển đổi cơ chế gây ảnh hưởng đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.
 
    Bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế kinh tế thị trường cũng tạo ra những tác động tiêu cực như phân hóa xã hội, bất bình đẳng về thu nhập... gây nên những tâm tư, băn khoăn về đãi ngộ, cống hiến trong một bộ phận đội ngũ cán bộ.
 
    Cơ chế vận hành của bộ máy công quyền ở không ít nơi tạo cho người cán bộ, đảng viên chỉ chịu trách nhiệm với cấp trên, không chịu trách nhiệm trước người dân. Điều này dẫn đến nguy cơ, nếu xảy ra vi phạm thì khi tiến hành kiểm tra cũng rất khó, bởi sự dàn xếp, bao che lẫn nhau giữa các cán bộ; những người có chức có quyền sẽ tạo lập vây cánh, cất nhắc người ủng hộ mình.
 
    Thứ sáu, thực hiện các khâu trong công tác cán bộ của Đảng ở không ít nơi còn hạn chế, khuyết điểm; các quy định về công tác cán bộ thiếu đồng bộ.
 
    Một số khâu trong công tác cán bộ chậm được đổi mới, quy trình chưa hoàn thiện, còn lỗ hổng, bị lợi dụng. Đánh giá cán bộ chưa phản ánh đúng thực chất, không ít trường hợp rơi vào cảm tính, thậm chí dễ dãi, bao che hoặc định kiến, hẹp hòi. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, chưa bao quát giữa các cấp, các ngành, các địa phương, các lĩnh vực... Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không phải là người địa phương vẫn còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân xảy ra ở một số địa phương gây bức xúc trong dư luận. Công tác tuyển dụng còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, chưa đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tế...
 
    Việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, “Hiện nay, qua rà soát, còn 29 nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng về tổ chức và cán bộ”(2).
 
    Phải làm tốt hơn nữa khâu “then chốt của then chốt” 
 
    Đại hội XIII của Đảng xác định: “phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân”(3).
 
    Thời gian qua, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng bước đầu đạt được kết quả quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân. Tuy nhiên, đây là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ, bởi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù ẩn nấp trong những vỏ bọc rất tinh vi, “ăn sâu bám rễ” trong tư tưởng, hành động của mỗi cá nhân. Vì thế, xây dựng đội ngũ cán bộ, kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân cũng là để không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ của tình hình mới.
 
    Để xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu, cần chú trọng hơn nữa đến những giải pháp sau:
 
    Một là, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.
 
    Việc quán triệt, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ là yêu cầu quan trọng để thực hiện Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; bảo đảm công tác cán bộ được thực hiện dân chủ, khách quan, công tâm, lựa chọn đúng người có đủ phẩm chất, năng lực theo tiêu chuẩn quy định.
 
    Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ phải là sự kết hợp đúng đắn chế độ tập thể lãnh đạo với phát huy trách nhiệm cá nhân, thực hiện dân chủ với tập trung; nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp; thể chế hóa, cụ thể hóa mạnh mẽ nguyên tắc tập trung dân chủ thành quy chế, quy định nhằm bảo đảm thực hiện chặt chẽ quy trình của công tác cán bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát; phát huy cao độ, thực chất dân chủ, đoàn kết trong Đảng...
 
    Hai là, đổi mới phương pháp đánh giá, nhận xét cán bộ.
 
    Đánh giá, nhận xét cán bộ là khâu tiền đề, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để làm tốt và nâng cao chất lượng các khâu khác trong công tác cán bộ. Theo đó, đòi hỏi phải công tâm, khách quan, đoàn kết, nhất trí cao trong tổ chức; phải lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đo chính gắn với sản phẩm cụ thể, bảo đảm khách quan, cụ thể, khoa học, chính xác; phải được cấp ủy thảo luận dân chủ, kiên quyết khắc phục tình trạng chuyên quyền để quyết định.
 
    Việc đánh giá cán bộ phải toàn diện cả đức và tài, chú trọng phẩm chất chính trị và năng lực công tác chuyên môn, đặt trong môi trường, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể; khắc phục tình trạng đánh giá chung chung, cảm tính, chủ quan, coi bằng cấp, học vị cao hơn phẩm chất, năng lực.
 
    Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định, bên cạnh mặt tích cực là cơ bản thì tình hình tư tưởng, tâm trạng trong cán bộ, đảng viên vẫn còn có những biểu hiện đáng lo ngại, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức mới chỉ bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi. Bởi vậy, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề mang tính quy luật trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; trong đổi mới toàn diện cán bộ và công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong hình mới.
 
    Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
 
    Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ được chủ động, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài; làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vững vàng về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn công tác chuyên môn.
 
    Công tác quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và từ thực trạng đội ngũ cán bộ để xây dựng quy hoạch, bảo đảm tính khoa học, tính kế thừa liên tục và vững chắc. Công tác quy hoạch phải gắn với đào tạo, bồi dưỡng toàn diện, thiết thực cả về lý luận và thực tiễn; chú trọng đào tạo chuyên sâu, kết hợp nhiều hình thức, biện pháp; gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng cán bộ.
 
    Tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và cán bộ, đảng viên về công tác quy hoạch cán bộ, tạo cơ sở thực hiện tốt các quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng gắn với quy hoạch bảo đảm đồng bộ, thiết thực. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách đối với cán bộ; quan tâm đến cơ chế thu hút người tài...
 
    Bốn là, đổi mới công tác bố trí, sử dụng cán bộ.
 
    Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải đúng người, đúng việc, đúng sở trường nhằm phát huy tốt nhất năng lực của cán bộ; lấy ý kiến rộng rãi, đa chiều làm cơ sở để quyết định trong bố trí và sử dụng cán bộ; bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa các chức danh lãnh đạo, quản lý với trình độ chuyên môn, lĩnh vực công tác; mạnh dạn bổ nhiệm cán bộ trẻ để họ được rèn luyện, thử thách, trưởng thành và có điều kiện tham gia cấp ủy.
 
    Các cấp ủy, cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch và thực hiện luân chuyển cán bộ theo quy hoạch; xác định số lượng và dự kiến danh sách cán bộ luân chuyển trong cả nhiệm kỳ và từng năm. Đối tượng luân chuyển phải thực sự có năng lực và triển vọng phát triển. Cần làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ luân chuyển cả nơi đi và đến; xây dựng kế hoạch sử dụng cán bộ đến luân chuyển và sau khi luân chuyển về.
 
    Năm là, không ngừng trau dồi, rèn luyện bản lĩnh, phẩm chất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.
 
    Bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng là yêu cầu cơ bản của người cán bộ, đảng viên. Theo đó, nhiệt tình cách mạng phải đi liền với tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao; cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu phải công minh, khách quan, trung thực, “thấu lý đạt tình”; kiên quyết bảo vệ cái đúng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, lệch lạc; tác phong làm việc khoa học, sâu sát, cụ thể, không chủ quan, kiêu ngạo, qua loa.
 
    Cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu phải luôn có quan điểm toàn diện, khách quan, lịch sử cụ thể, loại bỏ động cơ cá nhân hoặc chạy theo tình cảm riêng tư và đặc biệt không bị chi phối bởi bất cứ áp lực nào. Nếu cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu không trong sáng, liêm khiết về nhân cách, không làm gương để mọi người noi theo thì khó mà hoàn thành được nhiệm vụ. Do đó, phải không ngừng rèn luyện về mọi mặt, luôn nêu cao ý thức cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, không vì lợi ích cá nhân mà vi phạm kỷ luật làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu.
 
    Phải có tinh thần đoàn kết, xây dựng và tình cảm cách mạng sâu sắc. Đoàn kết phải trên cơ sở thống nhất về đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và vì lợi ích chung của Đảng; trên cơ sở tình cảm cách mạng và tình thương yêu đồng chí; luôn nêu cao ý thức đấu tranh tự phê bình và phê bình.
 
     (1) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M, 1974, t.44, tr.499.
    (2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II; tr.196, 226.

Theo: https://tuyengiao.vn 
PGS. TS. Lê Văn Cường

(Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
.