Bài 2: Gỡ khó cho công tác thu hồi tài sản tham nhũng

Tập trung xử lý những khâu yếu, việc khó trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Thứ Bảy, 04/11/2023, 06:11 [GMT+7]
    Thu hồi tài sản tham nhũng được xem là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC). Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, tập trung, thống nhất, chặt chẽ của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC (Ban Chỉ đạo Trung ương), đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, đây vẫn là một trong những “khâu yếu”, “việc khó” cần tập trung xử lý trong thời gian tới. Ở Tạp chí Nội chính số 113, tháng 8/2023, tác giả đã đề cập đến nội dung “Gỡ khó cho công tác giám định, định giá tài sản” - một trong ba “khâu yếu”, “việc khó” cần tập trung xử lý trong PCTNTC. Bài viết kỳ này, tác giả tiếp tục đề cập đến nội dung “Gỡ khó cho công tác thu hồi tài sản tham nhũng”. Đây là “khâu yếu”, “việc khó” thứ 2 cần tập trung khắc phục trong thời gian tới.

    1. Cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã được sửa đổi, bổ sung, từng bước đáp ứng yêu cầu thu hồi tối đa tài sản tham nhũng

    Xác định hiệu quả của công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế phụ thuộc rất lớn vào kết quả truy tìm, xác minh, áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các cơ quan tiến hành tố tụng trước đó, do vậy, việc kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tất cả các khâu của quá trình tố tụng sẽ hạn chế việc chuyển nhượng, che giấu tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án là hết sức quan trọng. Ngay từ năm 2015, Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC đã giao Ban Nội chính trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng nghiên cứu  chuyên đề “thu hồi tài sản tham nhũng” để kiến nghị, đề xuất các giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong công tác này. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo trung ương đã chỉ đạo: “Để nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng, yêu cầu các cơ quan chức năng cần chú trọng áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo quy định của pháp luật”(1).
    
    Để tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, tích cực góp phần vào công tác đấu tranh PCTN, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 02/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đây là lần đầu tiên Ban Bí thư, Bộ Chính trị có một Chỉ thị riêng về công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Chỉ thị đã yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu phải nhận thức đúng và xác định trách nhiệm của cá nhân trong công tác thu hồi tài sản. Sau khi Chỉ thị số 04-CT/TW được ban hành, nhiều chính sách, pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Cụ thể là: Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung một số luật, Chính phủ đã ban hành một số văn bản có liên quan đến thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế(2). Đáng chú ý, ngày 11/01/2022, Quốc hội ban hành Luật số 03/2022/QH15 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật trong đó có Luật Thi hành án dân sự, theo đó, sửa đổi, bổ sung Điều 55, 56, 57 quy định về ủy thác xử lý tài sản, góp phần khắc phục những bất cập trong cơ chế ủy thác hiện hành, đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản đồng thời ở nhiều địa phương để thu hồi tối đa tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế cho Nhà nước.
 
    Sau khi Luật này có hiệu lực, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự (THADS) thực hiện ủy thác xử lý tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Đến nay, các cơ quan THADS đã hoàn tất việc ủy thác xử lý tài sản và ra quyết định thụ lý xử lý tài sản đối với các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo. Đặc biệt, Luật Thanh tra năm 2022 đã cho phép trưởng Đoàn thanh tra, thanh tra viên có quyền xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn (Khoản 2, Điều 68). Người ra quyết định thanh tra, trưởng đoàn thanh tra có quyền yêu cầu tổ chức tín dụng phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra; đề nghị cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp để ngăn chặn kịp thời đối tượng thanh tra có hành vi hủy hoại, tẩu tán tài sản hoặc để bảo đảm thực hiện quyết định thu hồi tài sản của thủ trưởng cơ quan thanh tra, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước (điểm e, Khoản 1, Điều 80; Điểm đ, Khoản 1, Điều 81, Điều 90). Nhưng đáng chú ý nhất là, Người ra quyết định thanh tra có quyền quyết định thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái pháp luật hoặc làm thất thoát tài sản nhà nước mà không phải đợi kết luận thanh tra (Điểm h, Khoản 1, Điều 80; Khoản 1, Điều 91). 
 
    2. Kết quả thu hồi tài sản tham nhũng
 
    Nếu trước năm 2013, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng bình quân đạt khoảng 10% trên tổng số phải thu hồi, thì đến giai đoạn 2013-2020 kết quả bình quân đã đạt hơn 26%. Sau khi có sự chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo Trung ương, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tích cực chủ động áp dụng các biện pháp truy tìm, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, hạn chế để các đối tượng có liên quan tẩu tán, che giấu, hợp pháp hóa tài sản tham nhũng; khuyến khích người phạm tội giao nộp tài sản để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật. Đặc biệt, năm 2019, 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã thành lập 05 Đoàn kiểm tra tại nhiều địa phương, bộ, ngành để kiểm tra, đánh giá đầy đủ, toàn diện kết quả thu hồi tài sản, từ đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế, khó khăn và chỉ đạo khắc phục. Kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng do Ban Chỉ đạo Trung  ương theo dõi, chỉ đạo năm 2020 thu hồi bằng 61% tổng số đã thu hồi được trước đây. Năm 2022, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài khoản trị giá trên 364.000 tỷ đồng (tăng hơn 10 lần so với năm 2021); cơ quan thi hành án dân sự thu hồi được 27.400 tỷ đồng (tăng gấp 3 lần so với năm 2021). Trong 6 tháng đầu năm 2023, chỉ tính riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo, các cơ quan THADS đã thu hồi được gần 2.100 tỷ đồng trong các vụ án, vụ việc Ban Chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thu hồi được trên 53.000 tỷ đồng (tăng gấp 2,5 lần so với cả nhiệm kỳ Đại hội XII); trong đó, đã thu hồi được nhiều tài sản tẩu tán ra nước ngoài; điển hình như đã thu hồi gần 2,7 triệu USD Mỹ và 127.000 đô la Singapore của Phan Sào Nam ở nước ngoài. Một số vụ việc điển hình đã thu hồi được số tiền lớn trong thời gian qua, như: Vụ Hứa thị Phấn, cho đến nay đã thu hồi được hơn 12.000 tỷ đồng; vụ Phạm Công Danh, đã thu hồi được trên 5.405 tỷ đồng. Đặc biệt, trong vụ án AVG, cơ quan chức năng đã thu hồi được 100% số tiền thất thoát (hơn 8.000 tỷ đồng). 
 
    Mới đây nhất, liên quan đến Vụ Việt Á, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã kịp thời phong tỏa, ngăn chặn, kê biên thu hồi tài sản của các bị can, đối tượng có liên quan trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các địa phương khác với số tiền hơn 1.600 tỷ đồng. Như vậy, kết quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế có xu hướng tăng dần, năm sau cao hơn năm trước, góp phần quan trọng vào kết quả chung của công tác đấu tranh PCTNTC, để lại dấu ấn nổi bật, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
 
    3. Vẫn còn số lượng tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt lớn nhưng không thể thu hồi do bị che giấu, tẩu tán
 
    Mặc dù tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế ngày càng tăng lên, song theo Báo cáo tổng kết 10 năm công tác PCTNTC, giai đoạn 2012-2022, cơ quan thi hành án dân sự các cấp thu hồi được gần 60.940 tỷ đồng/175.608 tỷ đồng, đạt 34,7%, trong đó, riêng trong các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo trung ương theo dõi có gần 50.000 tỷ đồng được thu hồi, cũng chỉ đạt 41,3%. Như vậy, còn khoảng 115 nghìn tỷ đồng chưa được thu hồi; riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo trung ương theo dõi còn gần 70 nghìn tỷ đồng cần được thu hồi. Nhiều vụ án lớn các cơ quan có thẩm quyền không thể thu hồi được tài sản bị tham nhũng vì người phạm tội đã tẩu tán hết tài sản hoặc không có khả năng thanh toán như trong vụ án Phạm thanh Bình, nguyên Chủ tịch tập đoàn Vinashin và 8 đồng phạm, bị khởi tố về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng (số tiền phải bồi thường thiệt hại trong vụ án này là hơn 1.100 tỷ đồng, nhưng đến đầu năm 2016, số tiền thu hồi chỉ là 2,4 tỷ đồng); vụ án Huỳnh thị Huyền Như bị khởi tố về tội tham ô tài sản và cố ý vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (tòa tuyên án bị cáo phải sung công 4.000 tỷ đồng, nhưng qua thẩm tra, thẩm định chỉ thu về cho Nhà nước được 500 tỷ đồng). Vụ án Dương Chí Dũng, nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines phải bồi thường 110 tỷ đồng (nhưng cơ quan thi hành án đã ra quyết định không có điều kiện thi hành với khoản tiền trên 88,5 tỷ đồng còn lại). Như vậy, so với yêu cầu về thu hồi tài sản tham nhũng thì “rõ ràng số mất với số lấy lại vẫn chưa tương xứng”(3).
 
    Tại một số địa phương, số lượng các trường hợp áp dụng cưỡng chế kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản còn ít, chưa tương xứng với số lượng án và tài sản phải thu hồi. Việc xác minh làm rõ nguồn gốc tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, kinh tế để xử lý trong quá trình giải quyết vụ án gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện giám định trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng… thường chậm, kéo dài, không đáp ứng thời gian theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng nên ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án. Việc kiểm tra, giám sát, thanh tra công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế còn hạn chế. Vai trò hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS các cấp chưa được phát huy đúng mức; một số ban chỉ đạo THADS cấp huyện chưa tích cực, chủ động trong chỉ đạo xử lý các vụ việc thi hành án phức tạp tại địa phương.
 
    Thực trạng này xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
 
    Một là, người phạm tội tham nhũng thường có ý thức che giấu, tẩu tán mọi tài sản, kể cả những tài sản thuộc sở hữu của mình (không phải tài sản phạm tội) trước và ngay sau khi phạm tội, trong khi đó, các hành vi tham nhũng thường chỉ bị phát hiện sau một thời gian dài, khiến việc thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án gặp khó khăn, phức tạp, đặc biệt là việc xác định tài sản có nguồn gốc tham nhũng. Các thủ đoạn được áp dụng trong trường hợp này đa phần là: Trực tiếp cất giấu tiền, vàng với số lượng lớn thay vì đưa chúng vào hoạt động kinh doanh; sử dụng tên của người thân (cha mẹ, vợ, chồng, con) hoặc bạn thân, người có quan hệ lệ thuộc… để đứng tên tài sản bất hợp pháp(4); chuyển tiền nhiều lần, qua nhiều người để chuyển tiền ra nước ngoài mua tài sản; rửa tiền thông qua thành lập các công ty vỏ bọc, qua sòng bạc hoặc các trung tâm vui chơi giải trí khác, đưa tiền vào hoạt động từ thiện, xã hội, thậm chí sử dụng vào các công trình tâm linh…
 
    Do người phạm tội có ý thức che giấu, tẩu tán tài sản (như đã nêu trên), nên việc phát hiện, xử lý các hành vi cất giấu tài sản phạm pháp gặp phải không ít khó khăn cho các cơ quan chức năng khi truy tìm nguồn gốc tài sản, vì: (1) Chưa có cơ chế minh bạch, hiệu quả kiểm soát tài sản của các tổ chức, cá nhân. theo quy định hiện nay, đối tượng cán bộ, công chức thuộc diện kê khai tài sản chỉ phải kê khai tài sản của vợ (chồng) và con chưa thành niên do vậy, “tài sản tham nhũng “ẩn nấp” ngoài xã hội khó mà “đụng” vào được”(5); (2) Việc áp dụng các biện pháp điều tra, thu giữ tài sản phạm pháp khẩn cấp giai đoạn tiền tố tụng chưa triệt để và việc áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo trình tự, thủ tục chặt chẽ, phụ thuộc vào việc phát hiện, đánh giá chứng cứ qua hoạt động truy vết tài sản phạm pháp, do đó, trong nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế, người phạm tội có đủ thời gian để che giấu, tẩu tán tài sản trước khi các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời phát hiện, áp dụng các biện pháp ngăn chặn; (3) Một số đối tượng sau khi chiếm đoạt tài sản đã sử dụng hết vào mục đích cá nhân hoặc đang chấp hành hình phạt tù, không thể lao động tạo ra tài sản, thu nhập để thi hành án; nhiều trường hợp quá trình xác minh không còn tài sản có giá trị cao để thu hồi, không còn tiền trong tài khoản của bị can, bị cáo để phong tỏa. Việc thẩm định giá trị tài sản khi cho vay của các tổ chức tín dụng chưa được quản lý chặt chẽ, hiệu quả, dẫn đến một số trường hợp giá trị tài sản được thẩm định cao hơn giá trị thực tế của tài sản rất nhiều lần nên khi xử lý vụ án, công tác thu hồi tài sản tham nhũng không thực hiện được.
 
    Hai là, cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng còn nhiều bất cập, mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định riêng về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; cơ chế để bảo đảm, xử lý tài sản bị kê biên, phong tỏa chưa hợp lý(6); cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự còn chưa rõ để thực hiện tốt công tác phát hiện, xử lý tài sản do phạm tội mà có ở nước ngoài(7); chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan (như ngân hàng, tài chính, đất đai, xây dựng, giao thông...) với các cơ quan chức năng trong xử lý tài sản tham nhũng.
 
    Ba là, cơ chế quản lý tài sản ở nước ta hiện nay còn thiếu chặt chẽ, minh bạch; các giao dịch kinh tế, dân sự vẫn chủ yếu bằng tiền mặt. Một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng cho nên khó khăn trong việc xác định tài sản tham nhũng và tài sản được hình thành từ tham nhũng. Việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế có yếu tố nước ngoài gặp nhiều khó khăn; cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế chưa đầy đủ… 
 
    4. Một số giải pháp, kiến nghị
 
    Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác PCTNTC. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác thu hồi tài sản tham nhũng tại cơ quan, đơn vị mình. Đặc biệt, để tăng cường hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng tại địa phương, Ban thường vụ, thường trực tỉnh ủy, thành ủy, Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTNTC cần sát sao, quyết liệt, thường xuyên yêu cầu các cơ quan chức năng chủ động báo cáo theo thẩm quyền về thu hồi tài sản tham nhũng để chỉ đạo xử lý kịp thời, nghiêm minh theo đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chỉ đạo các cơ quan tố tụng phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp để tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, thu hồi triệt để các tài sản đã được các cơ quan có thẩm quyền kê biên. Chỉ đạo giải quyết kịp thời, không để xảy ra tình trạng các vụ việc kéo dài, tài sản để quá lâu không xử lý dẫn đến bị giảm giá trị, hư hỏng, bị lấn chiếm, chiếm dụng trái phép, làm ảnh hưởng quyền lợi của các bên đương sự cũng như chậm tiến độ thu hồi tài sản cho Nhà nước, tổ chức và cá nhân.
 
    Hai là, rà soát, sửa đổi, hoàn thiện chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng. Chỉ thị số 04-CT/TW đã yêu cầu phải rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong tỏa… Do vậy, trong thời gian tới cần khẩn trương thể chế hóa các quan điểm này. Cụ thể là:
 
    (1) Xây dựng trình tự, thủ tục riêng về thi hành án dân sự trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế thông qua việc sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014.
 
    (2) Xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc truy nguyên, truy tìm, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản ngay từ giai đoạn thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.
 
    (3) Nghiên cứu xây dựng cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội. Cơ chế này hiện nay được xem xét là biện pháp hỗ trợ có hiệu quả bên cạnh biện pháp tịch thu tài sản thông qua thủ tục kết tội, nảy sinh từ yêu cầu thực tiễn khi những biện pháp thu hồi tài sản theo cách thức truyền thống không giải quyết được các vấn đề bất cập của thực tiễn do gặp khó khăn trong xác minh, thu thập chứng cứ và chứng minh mối liên hệ giữa tài sản và hành vi phạm tội.
 
    Vì đây là biện pháp phức tạp, nhạy cảm, có thể ảnh hưởng đến một số quyền con người, quyền công dân; liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan, tổ chức; đòi hỏi phải có sự đồng bộ với các cơ chế, thiết chế khác như kiểm soát tài sản, thu nhập, kiểm soát giao dịch, hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, phòng, chống rửa tiền; cho nên, nghiên cứu xây dựng cơ chế này cần rà soát, đánh giá, đề xuất sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật hiện hành, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Luật PCTN, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật chuyên ngành. Pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội phải được quy định tập trung, thống nhất trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao và ổn định; quy định rõ nội hàm khái niệm; các dấu hiệu cơ bản của tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; các hình thức và biện pháp thu hồi; trình tự, thủ tục thu hồi; thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế giải quyết khiếu nại và bồi thường cho những cá nhân, tổ chức ngay tình có liên quan hoặc không liên quan nhưng chứng minh được quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm bởi quyết định thu hồi tài sản không dựa trên kết án và cơ chế giám sát ngay từ đầu để ngăn chặn nguy cơ lạm dụng, bảo đảm quyền của các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là quyền tài sản.
 
    (4) Hoàn thiện quy định về thẩm định giá, bán đấu giá tài sản đã kê biên, phong tỏa để thi hành án. Hiện nay, đối với bán đấu giá tài sản, khi áp dụng trình tự thông thường sẽ không đáp ứng được yếu tố đặc thù trong THADS như: Quyền  nhận lại tài sản của người phải thi hành án trước khi mở cuộc bán đấu giá một ngày làm việc; việc bán đấu giá theo thủ tục rút gọn; việc xác định đấu giá tài sản thi hành án không thành; xử lý tiền đặt trước của người tham gia đấu giá… Luật Đấu giá tài sản năm 2016 hiện chưa xác định rõ “người có tài sản bán đấu giá” trong THADS, chủ thể ký kết hợp đồng, dịch vụ đấu giá tài sản là cơ quan tHADS mà không phải Chấp hành viên; chưa quy định bắt buộc các trường hợp đấu giá tài sản thi hành án theo thủ tục rút gọn; chưa có quy định về những trường hợp được dừng cuộc đấu giá trong THADS do có quyết định hoãn, tạm đình chỉ thi hành án; chưa có quy định, hướng dẫn căn cứ xác định bước giá để cơ quan THADS tham khảo áp dụng; còn thiếu các quy định để ngăn chặn tình trạng thông đồng, dìm giá trong bán tài sản THADS;  chưa có sự thống nhất giữa Luật THADS và Luật Đấu giá tài sản về khái niệm “bán đấu giá không thành”…
 
    (5) Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tập trung nghiên cứu hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, góp phần phục vụ cho công tác quản lý, theo dõi biến động tài sản. Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu cơ chế đẩy mạnh giao dịch không dùng tiền mặt, hạn chế sử dụng tiền mặt trong việc giao dịch mua, bán các tài sản có giá trị lớn để thuận tiện kiểm soát thu nhập, truy tìm tài sản bị ẩn nấp, tẩu tán. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu xây dựng cơ chế chuyển nhượng vốn góp, cổ phần để kiểm soát tài sản chặt chẽ, hạn chế việc tẩu tán, che giấu, hợp thức hóa tài sản do phạm tội mà có, tạo thuận lợi cho công tác thu hồi tài sản tham nhũng.
 
    (6) Hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền. Vì quan hệ giữa tham nhũng và rửa tiền gắn bó chặt chẽ với nhau. Đối với những kẻ tham nhũng, khả năng chuyển nhượng và che giấu tiền của là hết sức quan trọng, nhất là trong những vụ tham nhũng quy mô lớn. Nói cách khác, các khoản tiền phạm pháp có được từ tham nhũng sẽ nhanh chóng chuyển dịch, kể cả qua trung tâm tài chính ở nước ngoài hay nằm trong các giao dịch dân sự và kinh tế dưới nhiều hình thức khác nhau. Do vậy, cần hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền để thúc đẩy công tác phòng, chống rửa tiền nói riêng và thu hồi tài sản tham nhũng nói chung. 
 
    (7) Để tạo sự minh bạch đối với tài sản được sở hữu trong từng tổ chức, cá nhân, tạo tiền đề thu giữ tài sản bất minh, đề nghị sửa đổi Luật PCTN năm 2018 theo hướng đưa những người thân thích như cha, mẹ, vợ chồng, con vào diện theo dõi biến động tài sản và xem đây là người có lợi ích liên quan với nhóm người có nguy cơ tham nhũng cao để kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm tham nhũng.
 
    Ba là, quyết liệt hơn trong áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng. Thành lập lực lượng phản ứng nhanh truy nguyên tài sản phạm pháp, thay vì giao cho bộ phận thụ lý vụ án hình sự hiện nay (vừa thu thập chứng cứ, vừa áp dụng các biện pháp khẩn cấp thạm thời để kê biên, phong tỏa và xử lý những tài sản này). Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng phải khẩn trương xác minh, kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, thu hồi triệt để tài sản tham nhũng. Khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm sát công tác thu hồi tài sản tham nhũng để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý ngay từ đầu hành vi che giấu, tẩu tán tài sản do tham nhũng mà có.
 
    Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế để thu hồi tài sản tham nhũng trong tố tụng hình sự; tiếp nhận, xử lý yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự của nước ngoài về thu hồi tài sản tham nhũng; đề nghị các nước thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự về thu hồi tài sản tham nhũng của Việt Nam; phối hợp các cơ quan có thẩm quyền nước ngoài và các tổ chức quốc tế để xác minh, truy tìm tài sản, thực hiện việc tương trợ tư pháp về hình sự đối với tài sản, tài khoản người phạm tội tẩu tán ra nước ngoài.
 
    Năm là, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong truy tìm, kê biên, xử lý tài sản từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn kết thúc thi hành án. thực tiễn tổ chức thi hành án dân sự trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế cho thấy, kết quả thu hồi tài sản ở giai đoạn thi hành án phụ thuộc chủ yếu vào việc áp dụng các biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm dừng việc dịch chuyển tài sản của bị can, bị cáo, người phạm tội từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Điều này đặt ra yêu cầu ngay từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm về tham nhũng, kinh tế, cũng như trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử, trong quá trình xử lý các vụ án tham nhũng, các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ, đề ra các biện pháp hữu hiệu để thu hồi triệt để tài sản bị thiệt hại. Các vụ đại án gần đây như vụ buôn lậu 200 triệu lít xăng giả, vụ nâng khống giá kít xét nghiệm Covid-19 của Việt Á,… đã có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tố tụng ngay từ giai đoạn tiền tố tụng nên giá trị tài sản thu giữ và phong tỏa được lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
 
    (1) Trích phát biểu kết luận của đồng chí tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng tại Phiên họp thứ bảy, ngày 25/4/2015..
    (2) Như: Luật Đấu giá tài sản năm 2016; Luật Giám định tư pháp sửa đổi năm 2020, Luật tương trợ tư pháp, Luật Kiểm toán Nhà nước, Luật thanh tra năm 2022, Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật các tổ chức tín dụng,… Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản. thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 40/Ct-ttg, ngày 01/11/2020 về tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động bán đấu giá tài sản nhằm chấn chỉnh hoạt động bán đấu giá.
    (3) Đồng chí Lê Minh trí, Ủy viên trung ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV.
    (4) Điển hình là trường hợp nguyên Chủ tịch UBND thành phố Hạ Long kiêm trưởng Ban quản lý vịnh Hạ Long Phạm Hồng Hà bị khởi tố về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; khi lực lượng chức năng tạm niêm phong, thu giữ 4 chiếc xe hạng sang trị giá hơn 20 tỷ đồng, vị này chỉ đứng tên một chiếc xe có giá trị thấp nhất khoảng 1,8 tỷ đồng.
    (5) Đồng chí Lê Minh trí, Ủy viên trung ương Đảng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phát biểu tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV.
    (6) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định chặt chẽ về cơ chế để bảo đảm thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát. thời điểm áp dụng biện pháp kê biên tài sản chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo; trong khi đó, hành vi tham nhũng có thể đã được phát hiện từ hoạt động kiểm tra của các cơ quan, hoạt động kiểm toán và phản ánh, tố cáo của cá nhân, tổ chức, do đó tài sản có thể bị tẩu tán. Không chỉ vậy, tài sản bị tịch thu phải là tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm, trong khi trên thực tế, tài sản do tham nhũng mà có thường được cất giấu, chuyển hình thức sở hữu ngay trong quá trình phạm tội, trước khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các bị can, bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử còn hạn chế, không bắt buộc áp dụng. Điều 128, 129 Bộ luật tố tụng hình sự quy định chỉ kê biên phần tài sản hoặc phong tỏa số tiền trong tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại, nhưng khi khởi tố bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể xác định được ngay thiệt hại mà tội phạm gây ra làm căn cứ quyết định phần tài sản phải kê biên, do đó, cơ quan tố tụng có thể chưa áp dụng biện pháp kê biên, phong tỏa dẫn đến đương sự có thể tẩu tán tài sản trước khi bị phát hiện.
    (7) Luật tương trợ tư pháp của Việt Nam chưa quy định rõ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phối hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp thu hồi tài sản trong tố tụng hình sự.
ThS. Bùi Thị Thu Huyền; Võ Kim Long
(Ban Nội chính Trung ương)
.