So sánh một số quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Hàn Quốc và một số gợi ý cho Việt Nam

Thứ Sáu, 25/02/2022, 07:08 [GMT+7]
    Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn và phức tạp. Để công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp luật phòng, chống tham nhũng hoàn chỉnh. Bài viết tập trung nghiên cứu về một số quy định pháp luật của Hàn quốc về phòng, chống tham nhũng và rút ra một số gợi ý cho Việt Nam trong hoàn thiện thể chế pháp luật về phòng, chống tham nhũng hiện nay.
    
    1. So sánh một số quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Hàn Quốc và Việt Nam
 
    Thứ nhất, quy định về hối lộ và nhận hối lộ.
 
    Luật Kim Young-Ran (Luật Chống tham nhũng của Hàn Quốc) quy định các hành vi cho và nhận hối lộ của công chức, theo đó, công chức nhận tiền hoặc tặng phẩm có giá trị từ 01 triệu won (khoảng 850 USD) trở lên một lần hoặc 03 triệu won (khoảng 2.500 USD) trở lên trong một năm từ một cá nhân nào đó sẽ bị xử phạt hình sự. Ngoài ra, luật cũng quy định mức trần về quà tặng, thết đãi, thăm hỏi, hiếu hỷ. Việc tặng quà với mục đích xã giao, nghi lễ không bị coi là hành vi nhờ vả không minh bạch, nhưng chỉ được phép dưới mức trần là 30.000 won (25 USD) đối với thết đãi bữa ăn, 50.000 won (42 USD) với quà tặng và 100.000 won (85 USD) đối với tiền thăm hỏi, hiếu hỷ. Nếu vi phạm những điều này, sẽ bị án tù dưới 03 năm hoặc phải đóng tiền phạt lên đến gấp 02 đến 05 lần số tiền mà họ đã nhận cùng số tiền phạt là dưới 30 triệu won (khoảng 25.500 USD). Luật này còn bảo đảm khen thưởng hậu hĩnh có thể lên tới 200 triệu won (khoảng 170.000 USD) cho người tố giác, bắt quả tang hành vi tham nhũng của các quan chức, nhân viên Chính phủ Luật này cũng quy định về hình thức xử phạt đối với cá nhân có hành vi hối lộ và yêu cầu bất chính tới công chức. 
 
Hội nghị trực tuyến giữa Ban Nội chính Trung ương và Ủy ban Chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc
Hội nghị trực tuyến giữa Ban Nội chính Trung ương và Ủy ban Chống tham nhũng và Quyền công dân Hàn Quốc
    Nếu một cá nhân nào đó đưa ra yêu cầu bất chính đến công chức một cách trực tiếp thì sẽ không bị xử lý; còn nếu cá nhân đó đưa ra yêu cầu bất chính đến công chức thông qua bên thứ ba thì sẽ bị phạt tiền không quá 10 triệu won (khoảng 8.500 USD) hoặc thông qua bên thứ ba là công chức khác thì phạt tiền không quá 20 triệu won (khoảng 17.000 USD). Đối với các hành vi cho và nhận hối lộ mà có mối liên hệ giữa việc đưa hối lộ và công việc của công chức sẽ vi phạm các quy định của Bộ luật hình sự năm 2016 của Hàn Quốc. Nếu một công chức nhận yêu cầu bất chính hoặc hứa nhận hối lộ liên quan đến thực hiện nhiệm vụ của mình (kể cả qua trung gian) sẽ bị truy tố với khung hình phạt tù tối đa là 05 năm và đình chỉ chứng chỉ hành nghề với thời hạn tối đa là 10 năm. Đối với việc cá nhân hứa, giao hoặc thể hiện ý muốn đưa hối lộ sẽ bị truy tố với khung hình phạt tù tối đa 05 năm và phạt tiền tối đa là 20 triệu won (khoảng 17.000 USD).
 
    Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định cho và nhận hối lộ là hành vi tham nhũng, tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý hành chính, phạt tiền hoặc xử lý hình sự (phạt tù). Đối với Việt Nam mức để bị xử lý hình sự là 02 triệu đồng (khoảng 90 USD/1 lần), Hàn Quốc quy định 01 triệu won (850 USD/1 lần). Sự khác nhau trong quy định của hai nước là chủ thể nhận hối lộ và mục đích nhận hối lộ: Hàn Quốc quy định chủ thể nhận hối lộ là công chức hoặc người thân (vợ/chồng), Việt Nam chỉ quy định chủ thể là công chức hoặc thông qua trung gian. Về mục đích nhận hối lộ: Hàn Quốc quy định không cần xét tới mục đích của việc nhận quà, nếu vượt quá mức quy định sẽ là hành vi phạm tội; trong khi đó, Việt Nam quy định nhận hối lộ phải có yếu tố “làm hoặc không làm một việc gì vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người khác…”. 
 
    Thứ hai, quy định về công khai tài sản đối với công chức.
 
    Nội dung về công khai tài sản công chức được quy định chi tiết trong Luật Đạo đức công chức. Mục đích là để ngăn chặn sự gia tăng tài sản bất chính nhờ lạm dụng chức vụ, đồng thời, luật cũng yêu cầu phải giải thích quá trình hình thành tài sản và công khai, đăng ký tài sản đối với những người có chức vụ, dễ tham nhũng. Công chức từ cấp 4 trở lên tại các bộ, thẩm phán, kiểm sát và kể cả nhân viên tại các cơ quan quyền lực vốn dễ vướng vào tham nhũng như: Cảnh sát, lính cứu hỏa, cục thuế, công tố viên… thì đều là đối tượng phải công khai tài sản.
 
    Người có nghĩa vụ đăng ký tài sản trong vòng 02 tháng kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thực hiện thì chính bản thân người đó cùng với chồng/vợ, bố mẹ, con cái… đều phải khai báo tài sản và mỗi năm phải khai báo khi thay đổi tài sản sở hữu. Nếu như người có nghĩa vụ đăng ký mà từ chối việc đăng ký tài sản nhưng không nêu ra được lý do chính đáng thì sẽ đối mặt với án tù tối đa là 01 năm hoặc tiền phạt tối đa 10 triệu won (khoảng 8.500 USD). Tài sản đăng ký bao gồm tất cả những thứ có giá trị như: Bất động sản, tiền mặt, kim loại quý, chứng khoán, quyền sở hữu các loại tài sản khác... Giá trị của tài sản phải được ước lượng theo giá trị thương mại thực tế (tài sản không được mua bán thì tính theo cách này). Trong vòng 01 tháng kể từ khi kết thúc thời gian đăng ký, nhà nước sẽ công khai nội dung tài sản đăng ký thông qua báo chí nhà nước, tất cả người dân có thể kiểm tra đúng sai về nội dung tài sản của các quan chức.
    
    Người có nghĩa vụ đăng ký phải kê khai một cách trung thực những hoạt động thu lợi, việc tạo ra lợi ích, giá cả và tài sản đăng ký, Ủy ban Đạo đức công chức sẽ tiến hành thẩm tra nội dung đăng ký, trường hợp cần thiết thì sẽ chuyển cho cơ quan tài chính trực tiếp điều tra nội dung tài sản của công chức. Nếu như công chức khai báo gian dối hoặc kê khai không đúng thì sẽ bị Ủy ban Đạo đức công chức kỷ luật hoặc cách chức. Ngoài ra, việc thu lợi do lạm dụng vị trí hoặc thu lợi từ những tài sản mình có mà không khai báo thì khi bị phát hiện sẽ bị phạt tiền, kỷ luật hoặc bị yêu cầu bãi nhiệm. Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định yêu cầu công chức phải kê khai tài sản cá nhân của mình. Tuy nhiên, nếu Việt Nam chỉ yêu cầu công chức kê khai tài sản thì Hàn Quốc quy định cả công chức, vợ/chồng, những người có quan hệ trực hệ với người phải đăng ký tài sản (trừ con gái đã kết hôn) đều phải kê khai tài sản.
 
    Về công khai tài sản công chức: Ở Việt Nam hiện nay chưa có quy định về công khai tài  sản ra công chúng mà chỉ có quy định công khai trong cơ quan và việc kiểm tra tính trung thực của kê khai tài sản do cơ quan phụ trách công chức thực hiện. Hàn Quốc quy định sau khi công chức hoàn thành kê khai tài sản thì Ủy ban Đạo đức công chức sẽ kiểm tra tính trung thực của bản kê khai và các bản kê khai sẽ được công khai trước công chúng để nhân dân có thể kiểm tra.
    
    Về các biện pháp xử lý: Việt Nam chỉ dừng lại ở các biện pháp hành chính như khiển trách, cảnh cáo… Hàn Quốc áp dụng các biện pháp như: Phạt tiền, cách chức hoặc án tù tối đa 01 năm nếu không kê khai hoặc kê khai gian dối. 
 
    Thứ ba, quy định về công khai thông tin.
 
    Nhằm bảo đảm quyền được biết của người dân, kể từ tháng 01/1998, Hàn Quốc đã thi hành Luật Công khai Thông tin công. Theo luật này, thì các cơ quan khu vực công của Hàn Quốc phải có nghĩa vụ công khai những thông tin quản lý hoặc những thông tin hoạt động của mình. Nhân dân có thể biết được thông tin cụ thể thông qua hệ thống công khai thông tin quốc gia, đồng thời, người dân cũng có thể tham gia vào quá trình trưng cầu ý kiến để ban hành quyết định hành chính của các cơ quan khu vực công. Những thông tin công khai bao gồm thông tin điện tử, hình ảnh, bản vẽ, văn bản mà cơ quan nhà nước soạn thảo hoặc thu thập được và quản lý chúng.
 
    Tuy nhiên, luật không quy định danh mục thông tin cần công khai mà lại quy định rằng thông tin mật hoặc không được công khai thì có thể không công khai. Cũng theo luật này, các cơ quan khu vực công phải quyết định việc có hay không công khai thông tin trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu công khai thông tin. Quyết định đối với việc có hay không công khai thông tin được thực hiện thông qua Hội đồng thẩm định công khai thông tin giữa các cơ quan khu vực công, Hội đồng này có số lượng từ 05 đến 07 thành viên và một nửa trong số các thành viên phải là những nhà chuyên môn bên ngoài và họ có những kiến thức liên quan đến nghiệp vụ công khai thông tin hoặc liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan khu vực công đó. Với những trường hợp các cơ quan khu vực công quyết định không công khai thông tin mà người dân yêu cầu thì người dân có thể đưa khiếu nại lên Tòa án hoặc gửi đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền. Tòa án sẽ đối chiếu những ảnh hưởng và tính cần thiết của việc công khai thông tin sau đó sẽ quyết định có nên công khai thông tin hay không.
 
    Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định quyền yêu cầu được biết thông tin của công dân theo đó người dân có quyền yêu cầu các cơ quan công cung cấp thông tin cần thiết theo quy định. Tuy nhiên, quy định của Việt Nam và Hàn Quốc có một số điểm khác nhau như sau: Hàn Quốc quy định các loại thông tin không được tiết lộ, Việt Nam quy định các loại thông tin được công khai; quyết định công khai thông tin ở Hàn Quốc do Hội đồng thẩm định với sự đồng ý của 2/3 thành viên Hội đồng, ở Việt Nam quyền quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ quan được yêu cầu; trong trường hợp không được công khai thông tin thì người yêu cầu ở Hàn Quốc có thể gửi đơn khiếu nại cho Tòa án, tại Việt Nam người yêu cầu có thể khiếu nại lên cơ quan cấp cao hơn để yêu cầu giải quyết. Bên cạnh đó, ở Việt Nam hiện nay thì việc công khai thông tin còn một số hạn chế như: không quy định các loại thông tin nào không được công khai nên các cơ quan thường gắn độ mật cho thông tin để từ chối cung cấp thông tin; thẩm quyền quyền quyết định cung cấp thông tin là ở thủ trưởng cơ quan nên việc tiếp cận thông tin của tổ chức và cá nhân là khá khó khăn.
 
    Thứ tư, quy định về đầu tư, mua sắm công.
 
    Các hợp đồng đầu tư, mua sắm công của Hàn Quốc bắt buộc phải thông qua Cơ quan Đầu tư và Dịch vụ mua sắm công được quy định trong Luật Mua sắm của Chính phủ năm 2016. Phạm vi các dịch vụ đầu tư, mua sắm công do Cơ quan Đầu tư và Dịch vụ mua sắm công thực hiện bao gồm: Mua, quản lý phân phối và cung cấp hàng hóa; ký hợp đồng xây dựng các công trình xây dựng cho các tổ chức công sử dụng; quản lý, vận hành trang thiết bị cho các tổ chức công… Việc đầu tư, mua sắm của Cơ quan Đầu tư và Dịch vụ mua sắm công được thực hiện theo Luật Hợp đồng Nhà nước. Luật Hợp đồng Nhà nước quy định việc thực hiện các hợp đồng đầu tư, mua sắm công đều phải thông qua các thủ tục đấu thầu quốc tế. Hợp đồng được ký kết theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng trên cơ sở bình đẳng, thiện chí; người đại diện ký kết hợp đồng của các cơ quan khu vực công không được đính kèm bất kỳ điều khoản hoặc điều kiện đặc biệt nào, không phân biệt đối xử với hàng hóa, công ty của bất kỳ quốc gia nào. Để tăng tính minh bạch và công bằng trong các hợp đồng mà Nhà nước là một bên, người đứng đầu hoặc công chức phụ trách hợp đồng phải yêu cầu nhà thầu cam kết không cung cấp tiền, hàng hóa, các hình thức giải trí hoặc bất kỳ lợi ích nào dù trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình tham gia đấu thầu, ký kết hay thực hiện hợp đồng (thậm chí là sau khi hoàn thành hợp đồng), hợp đồng sẽ bị hủy bỏ nếu các nhà thầu vi phạm các cam kết đó.
 
    Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều quy định về việc đầu tư, mua sắm công phải thông qua đấu thầu. Điểm khác nhau cơ bản là Hàn Quốc chỉ đấu thầu thông qua một đầu mối duy nhất là Cơ quan Đầu tư và Dịch vụ mua sắm công đại diện cho Nhà nước và chỉ có một hình thức là đấu thầu rộng rãi quốc tế; trong khi đó, tại Việt Nam việc mua sắm công lại theo nhu cầu của từng cơ quan, đơn vị, mỗi cơ quan, đơn vị là một đầu mối mua sắm và theo Luật Đấu thầu thì có đến 08 hình thức lựa chọn nhà thầu và mặc dù Chính phủ đã xây dựng Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia nhưng hiện nay đa số các đơn vị khi thực hiện mua sắm hay đầu tư vẫn thực hiện theo phương thức đấu thầu truyền thống. Vì vậy, ở Việt Nam có thể tạo thành rất nhiều đầu mối mua sắm làm tăng chi phí, tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng do khó quản lý và có thể làm tăng giá trị gói thầu gây tổn thất kinh phí của Nhà nước.
 
    Thứ năm, quy định về tố cáo và bảo vệ người tố cáo.
 
    Tại Hàn Quốc, việc tố cáo tham nhũng được quy định trong Luật PCTN. Bất cứ ai nếu biết được hành vi tham nhũng nào đó thì đều có thể tố cáo tới Ủy ban Bảo vệ quyền lợi quốc dân và nếu công chức nào biết được hành vi tham nhũng của công chức khác hoặc bị ép buộc tham nhũng hay nhận được đề nghị tham nhũng thì đều phải có nghĩa vụ khai báo. Thông tin của người khai báo hành vi tham nhũng sẽ được giữ bí mật tối đa theo Luật PCTN và trong trường hợp cần thiết sẽ được bảo vệ tính mạng thông qua lực lượng cảnh sát. Đồng thời, để không gây ra bất kỳ sự phân biệt đối xử đối với người khai báo thì trong trường hợp nếu như người khai báo gặp bất lợi từ cơ quan công tác hoặc gặp bất lợi khác thì có thể yêu cầu Ủy ban Bảo vệ quyền lợi quốc dân bảo vệ cho họ. Trong trường hợp này, Ủy ban Bảo vệ quyền lợi quốc dân có thể gửi yêu cầu bảo vệ người khai báo đến thủ trưởng cơ quan của người khai báo và nếu cơ quan đó phân biệt đối xử hay gây bất lợi hay tiết lộ thông tin về người khai báo thì Ủy ban sẽ yêu cầu xử phạt người có trách nhiệm với số tiền tối đa là 10.000.000 won (khoảng 8.500 USD) hoặc truy tố ra Tòa với mức án tù tối đa là 01 năm. 
 
    Luật PCTN của Hàn Quốc cũng quy định chế độ khen thưởng cho người khai báo: Trường hợp thông qua việc khai báo hành vi tham nhũng mà lợi ích công tăng lên thì có thể thưởng tiền cho người khai báo, mức tiền thưởng tối đa là 200 triệu won (khoảng 170.000 USD) và trường hợp khai báo hành vi tham nhũng có nhận vật phẩm có giá trị thì mức tiền thưởng tối đa là 500 triệu won (khoảng 427.000 USD) hoặc tối đa 30% giá trị của số tiền vi phạm; trường hợp việc khai báo hành vi tham nhũng giúp tiết kiệm chi phí, lợi ích kinh tế của các cơ quan khu vực công tăng lên thì sẽ so sánh tỷ lệ lợi ích kinh tế và hạn mức tiền thưởng tối đa là 3 tỷ won (khoảng 2,5 triệu USD) hoặc từ 4% đến 30% giá trị chi phí tiết kiệm được.
 
    Các quy định về tố cáo và bảo vệ người tố cáo của Việt Nam và Hàn Quốc tương đối giống nhau, coi trọng việc bảo vệ người tố cáo, các quy định bảo vệ người tố cáo rất rõ ràng và đầy đủ, đồng thời, cũng có những quy định về khen thưởng phù hợp. Tuy nhiên, có một số điểm khác nhau: Đảm nhận công tác bảo vệ người tố cáo ở Hàn Quốc là Ủy ban Bảo vệ quyền lợi quốc dân, đây là nơi tiếp nhận và có những biện pháp thích hợp để bảo vệ người tố cáo bao gồm cả việc yêu cầu cảnh sát bảo vệ; ở Việt Nam quy định nơi tiếp nhận đơn tố cáo sẽ đảm nhận bảo vệ người tố cáo, người tố cáo sẽ phải tự mình gửi đơn yêu cầu bảo vệ tới các cơ quan chức năng nếu muốn được bảo vệ.
 
    2. Một số gợi ý cho Việt Nam trong xây dựng và thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
 
    Thứ nhất, nghiên cứu sửa đổi quy định về hành vi nhận hối lộ trong Bộ luật hình sự năm 2015. Theo đó cần thiết quy định chỉ cần nhận hối lộ (bao gồm cả các bữa ăn, tặng quà…) là hành vi phạm tội mà không cần phải xét tới mục đích của việc nhận hối lộ là “làm hoặc không làm một việc gì vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người khác”. Quy định này cũng cần bổ sung thêm phạm vi về thời gian áp dụng, cụ thể xem xét cả đối với hành vi hối lộ được thực hiện sau khi bên đưa hối lộ được nhận lợi ích từ bên nhận hối lộ.
 
    Thứ hai, nghiên cứu bổ sung đối tượng nhận hối lộ là người thân của công chức. Các quy định về hối lộ của Việt Nam cũng có một số điểm bất cập khi áp dụng trong thực tế đó là những người nhận hối lộ thường không để lộ danh tính và không trực tiếp nhận mà để cho người thân nhận thay, các tài sản đó sẽ không đứng tên của công chức do đó sẽ khó xác định hành vi vi phạm; xác định mối quan hệ giữa nhận hối lộ và công việc của công chức sẽ khó khăn và kéo dài quá trình xử lý, vì vậy, cần nghiên cứu bổ sung đối tượng nhận hối lộ là người thân của công chức (vợ, chồng, con cái (bao gồm con nuôi), cha, mẹ (cha, mẹ nuôi), anh, chị em ruột). 
 
    Thứ ba, nghiên cứu bổ sung các quy định về kê khai tài sản cá nhân. Theo đó, cần bổ sung thêm quy định kê khai tài sản người thân của công chức (vợ/chồng, con cái (bao gồm con nuôi), cha mẹ (bao gồm cả cha, mẹ nuôi), anh, chị em ruột) nhằm kiểm soát tài sản công chức và người nhà, tránh việc lợi dụng quan hệ để nhận hối lộ bất chính. Kê khai tài sản ở Việt Nam thường bị đánh giá là mang tính hình thức, trong 10 năm thực hiện Luật PCTN mới chỉ phát hiện, xử lý kỷ luật 17 trường hợp cán bộ kê khai tài sản không trung thực(1).
 
    Nguyên nhân là do các quy định về kiểm tra tính trung thực bản kê khai và công bố bản kê khai không phù hợp. Cơ quan quản lý công chức vừa là nơi kiểm tra, vừa là nơi công khai bản kê khai, trong khi đó những người phải kê khai tài sản lại là những người có chức vụ. Vì vậy, cần nghiên cứu xây dựng cơ quan chuyên trách về kiểm tra các bản kê khai và công bố các bản kê khai cho công chúng hoặc quy định giao nhiệm vụ kiểm tra bản kê khai tài sản cá nhân cho cơ quan Nội chính như: Công an, Tòa án, Viện kiểm sát...
 
    Mặt khác, các hình thức xử lý khi công chức không hay kê khai không trung thực còn nhẹ, chủ yếu là xử lý kỷ luật hành chính, vì vậy không tạo tính răn đe cao. Do đó, cần nghiên cứu bổ sung quy định về hình thức xử lý như: Xử phạt tiền, tịch thu tài sản, phạt tù… nếu không kê khai hoặc kê khai không trung thực. 
 
    Thứ tư, luật hóa các quy định về công khai thông tin hành chính. Hiện nay, Việt Nam không quy định các loại thông tin hành chính nào không được công khai nên thường công chức sẽ sử dụng việc xác định độ mật để từ chối cung cấp thông tin hành chính cho công dân, doanh nghiệp. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung danh mục thông tin hành chính không được công khai để nhân dân nắm rõ, tiếp cận thông tin hành chính rõ ràng, đồng thời giám sát được công chức trong quá trình cung cấp thông tin hành chính theo yêu cầu. 
 
    Để khắc phục tình trạng thủ trưởng cơ quan chủ quan, duy ý chí trong việc cung cấp thông tin hành chính thì cần nghiên cứu mô hình Hội đồng thẩm định thông tin và cơ quan giám sát việc công bố thông tin hành chính theo yêu cầu của công dân, doanh nghiệp của Hàn Quốc để áp dụng cho Việt Nam. 
 
    Thứ năm, nghiên cứu ban hành quy định thống nhất một đầu mối duy nhất trong đấu thầu là Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch, giảm tổn thất kinh phí cho Nhà nước trong đầu tư, mua sắm công, Việt Nam có thể nghiên cứu ban hành quy định yêu cầu tất cả các cơ quan khu vực công, khu vực tư chỉ đấu thầu thông qua một đầu mối duy nhất là Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, đồng thời, nghiên cứu áp dụng đấu thầu rộng rãi quốc tế để có thể chọn được nhà thầu có chất lượng, uy tín như cách làm của Cơ quan Đầu tư và Dịch vụ mua sắm công của Hàn Quốc đang triển khai. Đối với các cơ quan vẫn tổ chức đấu thầu theo phương thức truyền thống thì cần có cơ chế xử lý.
 
    Nhằm hạn chế tình trạng hối lộ trước, trong và sau khi đấu thầu thì Việt Nam cũng có thể nghiên cứu bổ sung nội dung cam kết đối với nhà thầu về việc không cung cấp tiền, hàng hóa, các hình thức giải trí hoặc bất kỳ lợi ích nào dù trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình tham gia đấu thầu, ký kết hay thực hiện hợp đồng (thậm chí là sau khi hoàn thành hợp đồng), hợp đồng sẽ bị hủy bỏ nếu các nhà thầu vi phạm các cam kết đó.
 
    Thứ sáu, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về bảo vệ người tố cáo. Việt Nam có thể học tập quy định của Hàn Quốc đối với quy định về bảo vệ người tố cáo, theo đó có thể nghiên cứu ban hành quy định chú trọng đến việc bảo vệ người tố cáo trước những hành vi mang tính phân biệt đối xử, quy định cụ thể về nội dung biện pháp bảo vệ người tố cáo tránh khỏi sự phân biệt đối xử trong sinh sống, làm việc và thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp.
 
    Cần nghiên cứu bổ sung quy định người tố cáo được bảo vệ có quyền khiếu nại, tố cáo đối với hành vi trái pháp luật trong áp dụng biện pháp bảo vệ nhằm tăng cường biện pháp mang tính bảo vệ quyền của người tố cáo được bảo vệ. So với Hàn Quốc, các quy định pháp luật về PCTN của Việt Nam hiện nay vẫn chưa có tập trung, còn phân tán trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Kinh nghiệm PCTN của một số quốc gia khác nhau trên thế giới, để có thể PCTN có hiệu quả cần phải xây dựng hệ thống thể chế đầy đủ, hoàn thiện, đồng bộ và thống nhất. Để làm được việc đó đòi hỏi Việt Nam phải tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế, dựa vào việc giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, trao đổi thông tin về biện pháp PCTN của các quốc gia trên thế giới để hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN của chính mình.
 
    (1) https://baonghean.vn/10-nam-chi-phat-hien-17-can-bo-ke-khai-tai-san-khong-trung-thuc-105693.html
ThS. Lê Đức Hiền
(Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh)
.