Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới

Thứ Sáu, 02/04/2021, 06:33 [GMT+7]

    Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự ý thức được sứ mệnh, trọng trách trước giai cấp, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Để hoàn thành sứ mệnh, trọng trách lớn lao đó, trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn coi trọng tự đổi mới và tự chỉnh đốn. Sau 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những bước phát triển quan trọng, minh chứng cho năng lực, trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp, nhân dân và dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng Đảng ta trong 91 năm qua cho thấy, xây dựng Đảng phải luôn được xem là công việc cơ bản, thường xuyên; chỉnh đốn Đảng là công việc được đặt ra khi xuất hiện tình hình đặc biệt, cấp bách. Chỉnh đốn Đảng không có mục tiêu tự thân mà nhằm góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

    Nhận thức được vấn đề đó, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ ta. Các văn kiện Đại hội, Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị trong 35 năm đổi mới đã cho thấy rõ những bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 

    Mở đầu thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng (1986) đã nêu bốn nội dung cần phải đổi mới trong công tác xây dựng Đảng đó là: “Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(1). Vấn đề “đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác” đến Đại hội VII đã được điều chỉnh thành “đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách công tác”. Hội nghị Trung ương 5 khóa VI, ngày 20/6/1988 đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Đảng đề cập đến những “vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”. Về sau, nội hàm “những vấn đề cấp bách” được điều chỉnh, bổ sung thể hiện năng lực nhận diện, khả năng nhận thức và thái độ ứng xử của Đảng đối với những vấn đề liên quan đến sự lãnh đạo, thậm chí là sự tồn vong của Đảng. Điều này cũng cho thấy, Đảng đã ngày càng quán triệt sâu sắc quan điểm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VI đã thẳng thắn thừa nhận: Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng; năng lực tổ chức thực hiện của nhiều cấp ủy đảng còn yếu; đội ngũ cán bộ, đảng viên đông nhưng nói chung không mạnh; một số cán bộ, kể cả ở cấp cao, không gương mẫu, thậm chí thoái hóa, biến chất; ở nhiều nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng rất yếu; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng không được chấp hành nghiêm túc; bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, hống hách, cửa quyền, tệ ăn cắp của công, ăn hối lộ còn nặng; quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị xói mòn, uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng...(2). Trước thực trạng đó, Trung ương nhấn mạnh: Cần phải đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng; tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tập trung xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mới; khắc phục bệnh quan liêu; thực hiện chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp dành thời gian đi cơ sở, tiếp dân, giải quyết kịp thời tại chỗ những công việc cụ thể... Đại hội VII của Đảng (1991) chính thức đặt ra vấn đề đổi mới Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH chỉ rõ: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”(3). Vấn đề đổi mới tư duy trong mọi hoạt động của Đảng đã được đề cập đến tại Đại hội VI và được xem là nhiệm vụ cấp bách. Tuy nhiên, Đại hội VII nội dung này được phát triển ở quan điểm tự đổi mới phải gắn liền với tự chỉnh đốn và không phải chỉ tiến hành một lần, trong một thời gian ngắn mà phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. 

    Nghị quyết Trung ương ba khóa VII, ngày 26/6/1992 về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra một số khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng như: Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo; tình trạng mất đoàn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi; trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin; tệ tham nhũng, hối lộ, rất nghiêm trọng và kéo dài; chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng... Vì vậy, “đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”(4). Cũng tại Hội nghị này, Trung ương đã làm rõ nội hàm của xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức và đưa ra một số quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong công tác cán bộ.

    Trước yêu cầu lãnh đạo đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội VIII của Đảng (1996) khẳng định: “Để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Là đảng cầm quyền, lại hoạt động trong điều kiện mới hết sức phức tạp, Đảng ta ý thức sâu sắc về điều đó, coi đây là một quy luật phát triển của Đảng”(5). Như vậy, đến Đại hội VIII, tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã được xem là một quy luật phát triển của Đảng. Quan điểm này xuất phát từ việc Đảng ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về trọng trách trước lịch sử, giai cấp, dân tộc và những khó khăn, thách thức, hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo. Để tạo ra một chuyển biến mới trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII ngày 02/02/1999, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay đã xác định 10 nhiệm vụ cơ bản và cấp bách của công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ nhằm khắc phục một số hạn chế, yếu kém trong Đảng, đồng thời nhấn mạnh quan điểm coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; quyết tâm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiến hành tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ chủ chốt từ Trung ương đến cơ sở. 

    Tiếp tục thực hiện hiện vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đại hội IX của Đảng (2001) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Có thể thấy rằng, trong việc xác định các nhiệm vụ trọng tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đại hội IX nhấn mạnh nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Nhận thức này xuất phát từ thực trạng những yếu kém và khuyết điểm trong công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra rất nghiêm trọng; nạn tham nhũng, tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến, kéo dài đang trở thành một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ ta. Quan điểm đề cao nhiệm vụ giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân của Đại hội IX cũng đã bao trùm các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức. 

    Tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngày 18/3/2002, Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, xác định một hệ thống nhiệm vụ giải pháp toàn diện nhằm đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp công tác tư tưởng; đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đại hội X của Đảng (2006) đánh dấu những thay đổi quan trọng trong nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà trước hết là xác định rõ hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn bản chất của Đảng. Đại hội khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(6). Cùng với việc xác định  Đảng ta là đảng cầm quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới rất quan trọng trong nhận thức của Đảng, vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa MácLênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Cách diễn đạt này hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, sa vào quan điểm “đảng toàn dân”, mà thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, phù hợp hơn. “Nó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc”(7).

    Xuất phát từ yêu cầu lãnh đạo và thực trạng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đại hội X khẳng định: Phải dành nhiều công sức tạo được chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta(8). Cụ thể hóa nghị quyết của Đại hội, ngày 02/02/2008, Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã ra Nghị quyết về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đây là lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới Trung ương có một nghị quyết chuyên đề bàn về tổ chức cơ sở đảng. Trong Nghị quyết này, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm, yếu kém về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, củng cố cơ sở chính trị, xã hội của Đảng.

    Đại hội XI của Đảng (2011) một lần nữa xác định “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” là nhiệm vụ bao trùm và là nội dung chủ yếu nhất về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục”. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra, giám sát. Đáng lưu ý là “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”. Trên cơ sở đó, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được Đại hội XI nêu lên một cách toàn diện, bao gồm: Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận; Rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng(9).

    Trước những cơ hội và thách thức mới của thời kỳ đổi mới, nếu Đảng không giữ vững bản chất cách mạng của mình, không thật vững vàng về chính trị, tư tưởng, không thống nhất cao về ý chí và hành động, không trong sạch về đạo đức, lối sống, không chặt chẽ về tổ chức, không được nhân dân ủng hộ thì không thể đứng vững và đủ sức lãnh đạo đưa đất nước đi lên. Chính vì vậy, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XI, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Điểm mới trong nhận thức và cũng là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt thể hiện trong Nghị quyết là kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao của cả hệ thống chính trị, gắn với thực hiện tổng thể các nghị quyết khác của Đảng để khắc phục những khuyết điểm, yếu kém kéo dài trong Đảng và tạo bước đột phá về công tác cán bộ, trọng tâm là nhận diện, giải quyết 3 vấn đề cấp bách, 4 nhóm giải pháp, trong đó nhấn mạnh nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

    Sau hơn 4 năm, “việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, có tác động thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố thêm niềm tin trong Đảng và nhân dân”(10). Trên cơ sở đó, Đại hội XII của Đảng (2016) tiếp tục khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, trong đó xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là vấn đề cơ bản. Nhấn mạnh xây dựng Đảng về đạo đức, đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng là phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa xuất phát từ thực trạng đạo đức trong Đảng, vừa là yêu cầu xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Đây là bước phát triển nhận thức lý luận về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. 

    Bên cạnh đó, Đại hội XII cũng đánh giá đúng về vị trí “then chốt”, tầm quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng Đảng trong tổng thể mọi mặt công tác; làm rõ tính trọng tâm, trọng điểm trong khi tiến hành xây dựng Đảng toàn diện. Tính toàn diện đòi hỏi công tác xây dựng Đảng phải bao quát toàn bộ mọi mặt, không thể xem trọng mặt này mà xem nhẹ mặt khác. Tuy vậy, trong khi xác định những nhiệm vụ cụ thể, toàn diện, Đại hội XII cũng đã chỉ rõ các nhiệm vụ trọng tâm là: Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí, quan liêu. Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm này, ngày 30/10/2016, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong Nghị quyết, Trung ương đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(11). Phải nói rằng, đây không phải là lần đầu tiên Đảng đề cập đến vấn đề suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Tuy nhiên, tại Nghị quyết này, bước phát triển quan trọng về nhận thức và tổ chức thực tiễn công tác xây dựng Đảng được thể hiện qua việc Đảng ta không chỉ định hướng, định tính mà còn định lượng, định danh những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, khắc phục tình trạng chung chung, phiếm chỉ, thậm chí né tránh, ngại bàn công khai về những thói hư, tật xấu, những căn bệnh làm tổn hại vị thế, vai trò, năng lực và uy tín của đảng cầm quyền.

    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra vào tháng 01/2021, trong bối cảnh tình hình thế  giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó lường; đất nước đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi, đan xen nhiều khó khăn, thách thức; với nhiều vấn đề mới đặt ra phải giải quyết. Các văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã được chuẩn bị công phu, phát huy được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân. Nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong các văn kiện cũng có nhiều điểm mới, thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng. Chủ đề Đại hội XIII đã thể hiện rất rõ việc nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn mối quan hệ giữa xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng. Nhận thức này trước hết xuất phát từ tổng kết thực tiễn việc thực hiện công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII. Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng được tiến hành đồng thời và đan xen nhau; xây dựng Đảng là nhiệm vụ thường xuyên; trọng tâm của chỉnh đốn Đảng là tập trung vào các vấn đề quan trọng và cấp bách. Việc xử lý hài hòa giữa xây dựng và chỉnh đốn Đảng sẽ đem lại kết quả toàn diện trong công tác xây dựng Đảng, nhất là đột phá vào những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm. 

    Bên cạnh đó, nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong các văn kiện Đại hội XIII có một số điểm mới như: Bổ sung xây dựng hệ thống chính trị vào nội dung xây dựng Đảng: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”; “tăng cường xây dựng Đảng về chính trị”, nhấn mạnh hơn so với nhiệm vụ “chú trọng xây dựng Đảng về chính trị” của Đại hội XII; “Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo của Đảng trong hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại”. Điểm mới ở đây là nhấn mạnh bản lĩnh, năng lực dự báo trong hoạch định đường lối và công tác chính trị tư tưởng của Đảng; “nâng tầm tư duy lý luận của Đảng”, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu các vấn đề lý luận khó, phức tạp phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những vấn đề chưa rõ về cơ sở lý luận, còn có nhiều ý kiến khác nhau, mạnh dạn cho thí điểm, tổng kết kịp thời để có kết luận nhằm thống nhất về mặt nhận thức”(12)...

    Nhìn lại 35 năm đổi mới, có thể thấy rằng, nhận thức của về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những bước phát triển quan trọng: Đã bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ lý luận về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế; nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; nhận thức rõ hơn về yêu cầu Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn; về nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về vai trò của công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, hoàn thiện đường lối đổi mới; tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng... Những bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy tầm vóc, quy mô, tính chất, chiều sâu và ý nghĩa của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng được nâng lên. Đồng thời, cũng minh chứng cho năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm của Đảng ta đối với giai cấp, nhân dân và toàn thể dân tộc trên con đường xây dựng CNXH.

    (1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
    (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI)
về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.
    (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.21.
    (4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII), ngày 26/6/1992, về một số
nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
    (5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
    (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
    (7) Nguyễn Phú Trọng: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm 1991 đến nay.
    (8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
    (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
    (10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
    (11) Diễn văn bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII.
    (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
TS. Nguyễn Quang Ngọc
(Trưởng khoa Xây dựng Đảng, Trường chính trị Trần phú Hà Tĩnh)
.