Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng
Thứ Hai, 10/08/2020, 14:47 [GMT+7]
Thời gian qua, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta đã được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực, để lại dấu ấn tốt, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ; các tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá tích cực(1). Có được điều đó là sự tổng hợp của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng giữ vai trò chủ đạo và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1. Những con số đáng khích lệ
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong kiểm tra, giám sát về phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam hiện nay, một mặt, thể hiện kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan của Đảng; mặt khác, là kết quả hoạt động của các cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về PCTN là toàn diện, trên nhiều nội dung, nhưng có thể khái quát trên ba nội dung chính sau:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ban hành kịp thời các quy định, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN.
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN. Nhiều quy định, chỉ thị, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả. Các quy định của Điều lệ Đảng, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của cấp ủy, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp về công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra, giám sát về PCTN và kỷ luật đảng nói riêng ngày càng đầy đủ hơn. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 80 văn bản nhằm tăng cường công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN(2).
Kỳ họp 45 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương |
Trên cơ sở đó, Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN thành những quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành đã rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 63 luật, pháp lệnh, 66 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 611 nghị định, 532 nghị quyết, 197 quyết định(3). Các văn bản được ban hành kịp thời này đã góp phần hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ, khắc phục những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng trước đây.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN.
Các cấp ủy, tổ chức đảng và UBKT các cấp đã chủ động xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kiểm tra toàn khóa và chương trình, kế hoạch kiểm tra hằng năm phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương, đơn vị; chủ động phát hiện dấu hiệu vi phạm, xác định nội dung, đối tượng và tổ chức kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, do đó, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Ủy ban kiểm tra các cấp thời gian qua đã tham mưu, giúp cấp ủy kiểm tra, giám sát trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao, dễ xảy ra sai phạm. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước; nghiên cứu đổi mới cách thức kiểm tra, giám sát của cấp ủy để nâng cao khả năng phát hiện các hành vi tham nhũng, tiêu cực.
Thứ ba, chỉ đạo sát sao việc xử lý các vi phạm được phát hiện qua kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN.
Công tác kiểm tra, giám sát tiến hành trên cơ sở nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch đặt ra đã được Đảng chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác PCTN. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng, UBKT các cấp đã tiến hành kiểm tra 55.250 đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, trong đó kiểm tra 2.957 đảng viên có dấu hiệu về tham nhũng, cố ý làm trái và kiểm tra 263 tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đã thi hành kỷ luật 1.143 đảng viên có vi phạm về tham nhũng và cố ý làm trái; giải quyết tố cáo đối với 1.303 đảng viên có vi phạm về tham nhũng và cố ý làm trái và 6 tổ chức đảng có vi phạm về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí(4). Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có 21 đồng chí là Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang(5). Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, các cơ quan thanh tra, kiểm toán tập trung thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, nhất là các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm. Chỉ tính riêng năm 2019, qua công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tự kiểm tra nội bộ phát hiện 70 vụ, 89 người có hành vi liên quan đến tham nhũng, trong đó: cơ quan thanh tra các cấp đã phát hiện 47 vụ, 72 người; qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, các cơ quan nhà nước phát hiện 19 vụ, 12 người; qua công tác tự kiểm tra nội bộ, các cơ quan, tổ chức đã phát hiện 4 vụ, 5 người có hành vi liên quan đến tham nhũng(6).
Năm 2019, Kiểm toán nhà nước (KTNN) thực hiện 209 cuộc kiểm toán. Qua kiểm toán đã kiến nghị sửa đổi, thay thế 160 văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc chưa phù hợp với thực tiễn nhằm bịt lỗ hổng về cơ chế, tránh thất thoát, lãng phí. Tính đến ngày 30/9/2019, KTNN kiến nghị xử lý tài chính 61.732 tỷ đồng, chuyển hai vụ việc sang cơ quan điều tra, cung cấp 41 báo cáo kiểm toán cho các cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan điều tra và các cơ quan nhà nước khác(7). Các cơ quan tố tụng ở Trung ương và địa phương nỗ lực, cố gắng, tập trung lực lượng, tăng cường phối hợp trong điều tra, xử lý các vụ án, vụ, việc về tham nhũng. Nhiều vụ, việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, kể cả những vụ, việc tồn tại từ nhiều năm trước đã được phát hiện, xử lý nghiêm minh, công khai, đúng pháp luật, như các vụ án và bị cáo: Dương Chí Dũng, Vũ Quốc Hảo, Huỳnh Thị Huyền Như, Phạm Công Danh, Hà Văn Thắm, Giang Kim Đạt, Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm), Đinh Ngọc Hệ (Út trọc), vụ án đánh bạc và tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ và một số địa phương...
Có thể thấy, sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc đấu tranh PCTN. Kết quả này có được do nhiều yếu tố thuận lợi, như:
Thứ nhất, nhận thức của các cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN ngày càng được nâng cao, thể hiện rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong lĩnh vực này. Ủy ban kiểm tra các cấp chủ động triển khai các nhiệm vụ kiểm tra, giám sát công tác đấu tranh PCTN trong Đảng và phát huy vai trò tham mưu, giúp cấp ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và kiểm tra thực hiện. Theo đó, việc ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quy định về PCTN theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tại các cơ quan nhà nước được quan tâm, chủ động hơn; tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, tăng cường cán bộ để có đủ điều kiện, khả năng thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN...
Thứ hai, sự phối hợp giữa UBKT với các ngành thanh tra, kiểm sát, công an, kiểm toán, ban chỉ đạo PCTN các cấp... ngày càng trực tiếp và hiệu quả, nhất là có cơ chế phối hợp, thông tin nhanh và giảm thủ tục hành chính. Nhiều đơn vị phối hợp đã chủ động cử người tham gia các đoàn kiểm tra, giám sát, tham dự các hội nghị giao ban, trao đổi nghiệp vụ, tạo sự thống nhất hành động, tránh chồng chéo.
Thứ ba, sự quan tâm của nhân dân đến tình hình và kết quả đấu tranh PCTN, tiêu cực đã tạo động lực cũng như sức ép rất lớn đối với các cơ quan của Đảng và Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về PCTN. Vì vậy, các cấp ủy phải chủ động, tích cực, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát công tác PCTN và bản thân các cơ quan nhà nước cũng nâng cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm pháp luật để không phụ lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này.
2. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về PCTN còn có những hạn chế, yếu kém nhất định.
Thứ nhất, các quy định về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN còn tản mạn trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, chưa có tính hệ thống. Việc phân biệt và tách biệt giữa nội dung và phương thức lãnh đạo là không dễ và gặp lúng túng trên thực tế. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có quy định riêng về nội dung, phương thức lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN, cũng như cho các đối tượng khác nhau là tổ chức đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, một số chủ trương lớn của Đảng về hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật trong PCTN chậm được thể chế hóa để triển khai thực hiện, như yêu cầu mở rộng diện kê khai và phạm vi công khai kết quả kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên, công chức được đề ra trong Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/5/2012, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI, Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03/01/2014, của Bộ Chính trị, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản, nhưng đến năm 2018 mới được thể chế hóa trong Luật Phòng, chống tham nhũng...
Thứ ba, một số cấp ủy chưa ban hành hoặc chậm ban hành các quy định, quy chế, hướng dẫn quy trình kiểm tra, giám sát ở cấp mình và tổ chức thực hiện thống nhất; một số quy trình kiểm tra, giám sát được ban hành nhưng còn hình thức, rập khuôn quy trình của cấp trên...(8) do còn thiếu thông tin, hoặc chưa nắm bắt được đầy đủ và chưa sát tình hình thực tế, nhất là những lĩnh vực có tính đặc thù hoặc không phù hợp với tất cả các cấp. Thực tế cho thấy một số cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới khi căn cứ các quy định, quy chế, quy trình, quy định, hướng dẫn của Trung ương, của cấp trên để ban hành các văn bản ở cấp mình còn máy móc, chưa có sự sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở cấp mình để việc thực hiện được thuận lợi và có tính khả thi cao.
Thứ tư, còn có khoảng cách giữa quyết tâm chính trị của Đảng và hành động thực tế của một số cấp ủy, lãnh đạo và một bộ phận cán bộ, đảng viên. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN tuy đã được các cấp ủy quan tâm triển khai, song còn thiếu chiều sâu; có nơi, có thời điểm lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát chưa chủ động, chưa quyết liệt và sát thực tiễn; chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết; chưa kịp thời có các giải pháp tích cực nâng cao kết quả thực hiện. Tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý vi phạm trong nội bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu(9); nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, xử lý kéo dài. Một số kết luận kiểm tra, giám sát chưa xác định rõ ràng trách nhiệm của các chủ thể có liên quan, chưa xác định rõ biện pháp xử lý; chưa đưa ra được nhiều kiến nghị xác đáng để nâng cao hiệu quả công tác PCTN.
Những yếu kém, hạn chế trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, nhận thức của một số cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy và các cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát trong PCTN chưa đầy đủ và chưa đánh giá đúng vai trò quan trọng của lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát trong PCTN, dẫn tới chưa dành thời gian, công sức cần thiết cho thực hiện nhiệm vụ này. Một số tổ chức đảng, người đứng đầu đã “buông lỏng, xem nhẹ” việc lãnh đạo, chỉ đạo dẫn tới công tác kiểm tra, giám sát đối với công tác PCTN ở một số tổ chức, cơ quan chưa đạt được mục tiêu, hiệu quả. Mặt khác, nhận thức về công tác lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN ở các tổ chức đảng trực thuộc còn nhiều ý kiến khác nhau về chức năng, thẩm quyền, cơ chế, chính sách nên việc xác định kiểm tra, giám sát chuyên đề trong đấu tranh, PCTN còn nhiều lúng túng.
Hai là, thiếu các quy định, quy chế của Đảng làm cơ sở cho lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN; thiếu sự phân định rõ ràng về ranh giới giữa sự lãnh đạo của Đảng với quản lý của Nhà nước. Trên thực tế, hoạt động của các cơ quan nhà nước có chức năng PCTN còn phụ thuộc nhiều vào sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN dưới sự tham mưu của Ban Nội chính. Điều này đôi khi dẫn tới việc các cơ quan nhà nước thiếu sự chủ động, chuyên nghiệp, chưa bảo đảm tính độc lập, khách quan cần thiết để kiểm soát được tham nhũng.
Ba là, thể chế, cơ chế, chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực chưa đầy đủ, đồng bộ, có sự chồng chéo, tính khả thi chưa cao, gây khó khăn cho việc xem xét, kết luận và xử lý vi phạm. Việc rà soát, thể chế hóa, cụ thể hóa nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hiệu lực giữa văn bản của Đảng và Nhà nước còn chậm. Theo đó, việc thi hành kỷ luật trong Đảng còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, tài chính, đất đai, nhà ở, đầu tư, xây dựng cơ bản, cấp phát và sử dụng vốn ngân sách... vì còn thiếu chuẩn mực để có cơ sở đánh giá đúng, sai. Cơ chế, chính sách về xử lý người vi phạm chưa thực sự rõ ràng; vẫn còn có những trường hợp xử lý chưa kiên quyết, chưa nghiêm minh, không gắn cơ chế xử lý kỷ luật với xử lý về kinh tế và xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tiêu cực, tham nhũng.
Bốn là, công tác chỉ đạo thực hiện sự phối hợp giữa UBKT với các tổ chức đảng, cơ quan có liên quan trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ và thiếu đồng bộ. Công tác phối hợp giữa các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ trong đấu tranh PCTN chưa đồng bộ, chồng chéo và cơ chế chưa đầy đủ, hợp lý. Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ viện kiểm sát mới có quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trên cơ sở đề nghị của cơ quan điều tra và chỉ có hồ sơ của cơ quan điều tra mới được coi là căn cứ để truy tố nên dù cơ quan thanh tra hoặc kiểm toán nhà nước có làm kỹ đến đâu thì hồ sơ, chứng cứ đó không phải được lập theo quy định của tố tụng hình sự và nếu chuyển sang cơ quan điều tra thì cơ quan điều tra cũng phải làm lại(10).
3. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát về đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN cần các giải pháp đồng bộ, thống nhất giữa cơ quan của Đảng, cơ quan của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo phương châm: Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân(11). Theo đó, cần chú trọng một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh PCTN, trước hết là người đứng đầu cấp ủy và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị. Công tác kiểm tra, giám sát và hoạt động kiểm tra, giám sát phải được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy, gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, thường trực cấp ủy với tinh thần chủ động, có tính chiến đấu, phối hợp chặt chẽ, khẩn trương, dứt điểm, kịp thời thì mới có sức mạnh và đạt hiệu quả tốt. Công tác kiểm tra, giám sát phải bảo đảm hiệu quả, đặc biệt là kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng của một số đảng viên có chức, quyền phải có sự lãnh đạo, quan tâm thường xuyên của ban thường vụ, thường trực cấp ủy, trong đó vai trò đồng chí bí thư và sự chỉ đạo tích cực của UBKT cấp trên trực tiếp là những yếu tố hết sức quan trọng, nhất là đối với những vụ, việc tham nhũng phức tạp.
Thứ hai, đổi mới, hoàn thiện các quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với nội dung và phương thức lãnh đạo trong đấu tranh PCTN. Nghiên cứu xây dựng quy chế có tính quy phạm về sự lãnh đạo của Đảng cũng như thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát trong Đảng. Văn bản này cần được quy định một cách hệ thống về hoạt động kiểm tra, giám sát cũng như sự lãnh đạo hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng trên các nội dung: xác định khái niệm kiểm tra, giám sát; mục đích, các nguyên tắc, nội dung, hình thức và quy trình, thủ tục kiểm tra, giám sát; chủ thể lãnh đạo và đối tượng lãnh đạo cùng các quyền và nghĩa vụ đối với mỗi bên. Hoàn thiện các quy định trong Điều lệ Đảng về một số vấn đề liên quan đến lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, như sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng theo hướng phân cấp mạnh hơn về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kỷ luật Đảng; sửa đổi, bổ sung quy định về tính thống nhất và đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và trách nhiệm theo pháp luật của Nhà nước; quy định về trình tự xử lý kỷ luật về Đảng và chính quyền, đoàn thể, khắc phục tình trạng cùng một đối tượng và nội dung vi phạm nhưng đồng thời có cả hai hệ thống cơ quan cùng giải quyết... Đổi mới và hoàn thiện quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng trong đấu tranh PCTN. Các cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT cấp dưới căn cứ quy chế, quy trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT cấp trên để ban hành quy trình kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng ở cấp mình cho phù hợp và tổ chức thực hiện có hiệu quả, bảo đảm các nguyên tắc, phương pháp công tác đảng công khai, dân chủ, cụ thể, dễ thực hiện và được quy chuẩn hóa.
Thứ ba, tập trung chỉ đạo rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực; tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp... Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong việc PCTN, trong đó UBKT các cấp phải là lực lượng chủ công, nòng cốt. Mặt khác, UBKT các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đảng, cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng.
Thứ tư, coi trọng thực hiện công tác phối hợp với các ngành liên quan, giữa UBKT cấp trên với UBKT cấp dưới, thực hiện đúng phương pháp xây dựng Đảng, kiểm tra đảng, phối hợp, thống nhất nhận định, tính chất, mức độ vụ, việc, phương pháp, hình thức tùy vụ, việc mà có đơn vị chủ trì. Những vụ, việc phức tạp, liên quan đến cán bộ chủ chốt đồng cấp, hoặc có biểu hiện bao che, cản trở của cán bộ có chức, quyền thì UBKT cùng cấp rất khó thực hiện nhiệm vụ, vì vậy UBKT cấp trên cần lắng nghe, chỉ đạo kịp thời.
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh PCTN phải bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa phòng và chống tham nhũng - đây cũng là tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong Kết luận Hội nghị về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018 là: Phải quán triệt phương châm phòng ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn.
* Bài viết là sản phẩm của Đề tài độc lập cấp Nhà nước “Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam”, Mã số ĐTĐLXH.09/18 do TS. Trần Cẩm Tú, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương làm Chủ nhiệm
(1) Xem: Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018
(2), (3) Xem: Số liệu tại Phiên họp thứ 17 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 15-1-2020, tại Hà Nội
(4) Xem: Báo cáo số 113-BC/UBKTTW, ngày 18/4/2018, của Ủy ban Kiểm tra Trung ương
(5) Xem: Số liệu tại Phiên họp thứ 17 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Tlđd
(6) Xem: Báo cáo số 143/BC-TTCP, ngày 5-2-2020, của Thanh tra Chính phủ, Về tổng kết công tác năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 của ngành thanh tra
(7) Xem: Báo cáo số 1283/BC-KTNN, ngày 10-10-2019, của Kiểm toán Nhà nước, Về công tác năm 2019, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV
(8) Xem: Báo cáo số 06-BC/BCĐTK, ngày 26-6-2018, Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa X,về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
(9) Xem: Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016, của Bộ Chính trị, về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
(10) Xem: Đinh Văn Minh: Hoạt động phát hiện tham nhũng của cơ quan thanh tra và những vấn đề đặt ra, http://truongcanbothanhtra.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/nghien-cuu-trao-doi/125-hoat-dong-phat-hien-tham-nhung-cua-co-quan-thanh-tra-va-nhung-van-de-dat-ra.html
(11) Xem: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
|
Đặng Kim Ngân
(Ủy ban Kiểm tra Trung ương)
Tạ Thu Thủy
(Viện Khoa hoạc và chiến lược Thanh tra - Thanh tra Chính phủ)
(Theo Tạp chí cộng sản điện tử)