Loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ trên thế giới và ở Việt Nam

Thứ Năm, 30/04/2015, 00:49 [GMT+7]
Được bảo hộ thiên chức làm mẹ là quyền con người đặc thù và thiêng liêng của phụ nữ. Đạo luật quốc tế về nhân quyền đầu tiên - Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 đã khẳng định: “Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt” (khoản 2 Điều 25). Quyền được bảo vệ thiên chức làm mẹ của người phụ nữ được nhấn mạnh thêm trong Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW). Theo đó, các quốc gia thành viên Công ước CEDAW phải: Bảo đảm cho phụ nữ “quyền được bảo vệ chức năng sinh đẻ” (điểm f khoản 1 Điều 11). Những quy định pháp luật quốc tế đó đã đề ra cho pháp luật quốc gia một đòi hỏi về sự bảo hộ đặc biệt đối với thiên chức làm mẹ của phụ nữ. Quy định về loại trừ việc áp dụng hay thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ chính là quy định tối cần thiết để đáp ứng yêu cầu đó.
 
    1. Cơ sở của quy định loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ
 
    Cũng giống như các hình phạt khác, hình phạt tử hình được đặt ra để trừng trị người phạm tội, để răn đe, ngăn ngừa tội phạm. Tuy nhiên, hình phạt tử hình khác hơn ở chỗ nó tước đoạt đi quyền quan trọng nhất của con người - quyền sống. Việc thực thi hình phạt tử hình đối với một người sẽ chấm dứt sự tồn tại, loại bỏ vĩnh viễn người ấy ra khỏi xã hội. Điều đó được những người ủng hộ hình phạt tử hình lý giải bằng lý do bảo vệ xã hội: “Một số tội phạm phải chết để những người còn lại được an toàn, hay ít ra là an toàn hơn”(1). Bởi vậy, nên bất chấp những nỗ lực đấu tranh không ngừng nghỉ đòi xóa bỏ hình phạt tử hình của các phong trào nhân đạo, giá trị của hình phạt này vẫn không bị phủ nhận, nó vẫn được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới. Và mặc dù không phải là phổ biến nhưng cũng không tránh khỏi thực tế có những trường hợp người phải đối mặt với án tử hình là phụ nữ mang thai hoặc nuôi con nhỏ. Đối với trường hợp này, pháp luật quốc tế và pháp luật của hầu hết các quốc gia đương đại đều có yêu cầu loại trừ việc áp dụng hoặc thi hành hình phạt tử hình. Yêu cầu đó xuất phát từ những sở cứ quan trọng đặc biệt sau đây:
 
    Thứ nhất, việc loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ là vì lợi ích của đứa bé và sự công bằng đối với nó. Thai nhi hoặc trẻ nhỏ có sinh mệnh gắn liền với người mẹ, tử hình người mẹ đồng nghĩa với việc tước đoạt quyền sống của thai nhi hay ít ra là điều kiện sống tối cần thiết của đứa trẻ mới sinh. Đó là sự chà đạp quyền con người dã man và vô nhân đạo, không thể được chấp nhận trong xã hội văn minh. Thai nhi hay trẻ nhỏ yếu đuối và hoàn toàn vô tội, buộc nó phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi tội lỗi của người khác, dù đó chính là người mẹ sinh ra nó cũng hết sức bất công. Nói về sự vô lý này,  tác giả cuốn “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Nigeria” đã diễn đạt bằng một câu thành ngữ rất chân thực: “Đứa bé không thể bị ghê răng chỉ vì mẹ nó đã ăn nho chua”(2).
 
    Thứ hai, việc loại trừ hình phạt tử hình trong trường hợp này là bởi quyền thực hiện thiên chức làm mẹ là quyền con người thiêng liêng, không thể tước đoạt. Nhân loại thường cho rằng, quyền sống, quyền tự do là những quyền con người quan trọng nhất. Vậy nhưng thực tế là theo bản năng, đa số người mẹ trên thế gian có thể hy sinh mọi thứ, kể cả quyền sống, quyền tự do ấy vì tình mẫu tử. Điều đó làm nên phẩm giá của loài người, là cấu thành của nhân tính, nhân bản. Bởi tính chất thiêng liêng này nên không thể tước đoạt quyền thực hiện thiên chức làm mẹ của người phạm tội cho dù bản thân họ nguy hiểm đến mức phải bị loại ra khỏi xã hội.
 
    Thứ ba, việc loại trừ hình phạt tử hình đối với người phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ thể hiện sự thừa nhận, tôn vinh của xã hội đối với công lao của người mẹ. Thiên chức sinh sản, nuôi dưỡng của người phụ nữ được tạo hóa sinh ra để tái sản xuất con người, kiến tạo nhân loại. Cho dù người phụ nữ đã phạm tội lỗi ghê gớm đến đâu nhưng việc người ấy đang mang thai, nuôi con nhỏ nghĩa là đang đóng góp công sức lớn đối với sự phát triển của loài người. Có thể xem tình tiết đó như việc “lấy công chuộc tội” để đối xử khoan hồng đối với họ. 
 
    Thứ tư, loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ xuất phát từ đòi hỏi về tính nhân đạo của chính sách pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng. Trong khoa học pháp lý, phụ nữ được xác định là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn thương (vulnerable groups) cần được chú trọng bảo vệ. Tình trạng mang thai, sinh nở lại khiến phụ nữ yếu đuối, dễ bị tổn thương hơn nữa, càng cần đến sự bảo vệ đặc biệt. Vì lẽ đó, những hành vi xâm hại phụ nữ mang thai, sinh nở luôn bị xác định là có tính chất tàn bạo hơn so với xâm hại người bình thường. Tương tự như vậy, việc áp dụng, thực thi sự trừng phạt hà khắc nhất lên người phụ nữ đang ở tình trạng đặc biệt dễ tổn thương chắc chắn sẽ là rất vô nhân đạo. 
 
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử vụ án buôn bán chất ma túy. Bị cáo Hoàng Phương Lam (được xác định là người cầm đầu) đã thoát án tử hình do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử vụ án buôn bán chất ma túy. Bị cáo Hoàng Phương Lam (được xác định là người cầm đầu) đã thoát án tử hình do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. 
(Ảnh nguồn: anninhthudo.vn)
    2. Quy định pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới về việc loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ
 
    Luật nhân quyền quốc tế đã sớm đặt ra yêu cầu đặc biệt liên quan đến việc loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai” (khoản 5 Điều 6); Điểm 3 trong những bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đang phải đối mặt với án tử hình năm 1984 nhấn mạnh thêm: “Không được thi hành án tử hình đối với những phụ nữ có thai, các bà mẹ đang nuôi con nhỏ”.
 
    Tuy nhiên, các công ước của Liên hợp quốc chỉ cấm việc thực thi mà không đề cập đến việc áp dụng hình phạt tử hình. Vậy nên có thể hiểu rằng, hình phạt tử hình vẫn có khả năng được áp dụng trong trường hợp này, chỉ có điều việc thi hành hình phạt sẽ không được thực hiện khi họ vẫn còn trong tình trạng mang thai, nuôi con nhỏ. Về tình trạng nuôi con nhỏ, Công ước quốc tế cũng không xác định cụ thể việc nuôi một đứa trẻ bao nhiêu tuổi là nuôi con nhỏ. Do vậy, khoảng thời gian nuôi con nhỏ được dùng làm căn cứ để không thực thi án tử hình sẽ được xác định khác nhau theo quan điểm của các quốc gia khác nhau.
 
    Nếu như các công ước của Liên hợp quốc mới dừng lại ở việc cấm thi hành hình phạt tử hình đối với bà mẹ nuôi con nhỏ thì Hiến chương châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ em, Hiến chương nhân quyền Ả Rập đã có một bước tiến lớn hơn bởi quy định cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với những đối tượng này. Điểm e Điều 30 Hiến chương châu Phi về quyền và phúc lợi trẻ em yêu cầu các quốc gia thành viên không áp dụng hình phạt tử hình đối với “bà mẹ tương lai, mẹ của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”(3). Khoản 2 Điều 7 Hiến chương nhân quyền Ả Rập quy định: “Án tử hình không được áp dụng đối với người phụ nữ mang thai cho tới khi người đó sinh con cũng như đối với người mẹ cho con bú trong vòng hai năm kể từ khi sinh con”(4).
 
    Tựu chung lại, loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ là yêu cầu quan trọng về nhân quyền trong pháp luật quốc tế. Phù hợp với yêu cầu đó, việc thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai là không được phép ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. 84 trên tổng số 93 quốc gia còn duy trì hình phạt tử hình đã thông qua quy định cấm thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai. Ngoài ra, 08 quốc gia khác tuy chưa có quy định riêng nhưng đã phê chuẩn Công uớc quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 vốn nghiêm cấm việc thực thi hình phạt tử hình với phụ nữ mang thai là: Afghanistan, Gambia, Grenada, Guyana, Liberia, Saint Vincent, Grenadines và Tanzania. Việc thực thi hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai chỉ còn là hợp pháp ở một quốc gia duy nhất trên thế giới ở Tây Ấn là Liên bang Saint Kitts và Nevis(5).
 
    Quy định về loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai ở các nước trên thế giới chia làm hai nhóm: Nhóm thứ nhất bao gồm các quốc gia trì hoãn việc thi hành cho đến sau khi người phụ nữ sinh con và nhóm thứ hai là nhóm các quốc gia cho phép chuyển hình phạt tử hình xuống thành tù chung thân hoặc nhẹ hơn. Các quốc gia rơi vào nhóm trì hoãn thi hành hình phạt tử hình đến sau khi người phụ nữ sinh con quy định về khoảng thời gian trì hoãn rất khác nhau. Có thể chỉ 40 ngày như ở Morocco, 02 tháng ở Ai Cập, 03 tháng ở Bahrain và dài đến 03 năm như ở Thái Lan và Cộng hòa Trung Phi. Một số nước trì hoãn việc thi hành hình phạt tử hình trong một khoảng thời gian không xác định và để việc thi hành hình phạt sau khi người phụ nữ sinh con cho một cơ quan có thẩm quyền quyết định, đó là các nước như Burkina Faso, Chad, Iran, Lebanon, Nhật Bản và Hàn Quốc(6). Chẳng hạn, ở Nhật Bản, điều này chỉ được thực hiện khi có quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp(7).
 
    Ở các quốc gia cho phép chuyển đổi từ hình phạt tử hình mà đáng lẽ người phụ nữ mang thai sẽ phải chịu sang hình phạt khác thì đa số sẽ chuyển thành hình phạt tù chung thân, chẳng hạn như: Bahamas, Botswana, Ghana, Ấn Độ, Kenya, Kuwait, Lào, Malawi, Singapore, Sri Lanka, Uganda và Zambia… Một số nước ngoại lệ như: Belize - hình phạt tù chung thân có kèm lao động khổ sai và Malaysia - hình phạt tù có thời hạn tối đa 20 năm. Có 06 quốc gia đặc biệt bởi đã cho phép chuyển đổi thành án tù chung thân nhưng lại quy định Tòa án có thể xem xét trường hợp cụ thể để chuyển ngược lại thành án tử hình khi người phụ nữ đang mang án chung thân đó đã sinh con xong. Đó là Bangladesh, Eritrea, Ethiopia, Iraq, Myanmar và Pakistan(8).
 
    Vấn đề loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ nuôi con nhỏ cũng được pháp luật các nước trên thế giới đặt ra bởi sự chăm sóc của người mẹ thường có ảnh hưởng sống còn đối với đứa trẻ trong thời gian đầu đời. Tuy nhiên, khoảng thời gian nuôi con nhỏ được các quốc gia xác định rất khác nhau. Khoảng thời gian đó có thể là 40 ngày như ở Morocco hay đến 03 năm ở Thái Lan hoặc khoảng thời gian trừu tượng như “đến khi đứa trẻ cai sữa mẹ” ở Mali. Luật Iran lại chỉ giả định rằng nếu việc tử hình người mẹ gây nguy hiểm cho cuộc sống của đứa trẻ mà cô ta đang nuôi thì không được thực hiện. Trong 33 quốc gia phê chuẩn Hiến chương châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ em, đã có 08 nước ban hành điều luật riêng cấm áp dụng hình phạt tử hình đối với bà mẹ trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ theo yêu cầu của Hiến chương. Trong 08 thành viên của Hiến chương nhân quyền Ả Rập có 04 quốc gia chính thức có luật cấm áp dụng đối với phụ nữ cho con bú trong vòng 02 năm kể từ khi sinh con là: Ả Rập Saudi, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Yemen và Palestine. Tuy nhiên, Yemen cho phép rút ngắn thời hạn 02 năm nếu có người khác chăm sóc đứa trẻ. Bên cạnh các quốc gia thông qua luật cấm thi hành (hoặc áp dụng) hình phạt tử hình đối với phụ nữ đang nuôi con nhỏ, còn có các quốc gia mặc dù không đặt ra luật riêng nhưng đã cam kết tôn trọng yêu cầu của pháp luật quốc tế về vấn đề này.
 
    Theo đó, hình phạt tử hình sẽ không được thi hành đối với phụ nữ nuôi con nhỏ ở 51 quốc gia trên thế giới. Ngoài 51 quốc gia này còn có 03 quốc gia cho phép Tòa án cân nhắc việc loại trừ án tử hình đối với phụ nữ nuôi con nhỏ là Bangladesh, Eritrea và Ethiopia(9). Toàn cảnh pháp luật hình sự thế giới cho thấy ở tuyệt đại đa số (92/93) các quốc gia còn duy trì án tử hình thì việc thi hành hình phạt này đối với phụ nữ mang thai đều được loại trừ; hơn một nửa các quốc gia này cũng loại trừ việc thi hành đối với phụ nữ đang nuôi con nhỏ. Trong đó, một số quốc gia đặc biệt đã cấm cả việc áp dụng án tử hình đối với phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ. 
 
    3. Quy định pháp luật Việt nam về loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ
 
    Với tư cách một thành viên của Liên hợp quốc, luật hình sự Việt Nam không chỉ đáp ứng yêu cầu pháp luật quốc tế mà còn có quy định tiến bộ liên quan đến việc loại trừ hình phạt tử hình đối phụ nữ mang thai và nuôi con nhỏ. Cụ thể, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định như sau: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.
 
    Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân”. Điều luật này thể hiện sự khoan hồng đặc biệt vượt trội so với yêu cầu của pháp luật quốc tế ở những khía cạnh sau:
 
    Thứ nhất, luật hình sự Việt Nam đã loại trừ một cách triệt để cả việc áp dụng lẫn thi hành hình phạt tử hình lên các đối tượng được bảo hộ. Như đã đề cập ở trên, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 và những bảo đảm nhằm bảo vệ quyền của những người đang phải đối mặt với án tử hình năm 1984 chỉ yêu cầu không thi hành hình phạt tử với phụ nữ đang mang thai, đang nuôi con nhỏ. Vượt xa yêu cầu đó, luật hình sự Việt Nam loại trừ cả áp dụng lẫn thi hành hình phạt tử hình trong cả hai trường hợp này. Sự loại trừ ở đây là hoàn toàn triệt để: Không áp dụng, nếu đã áp dụng thì không thi hành và không bao giờ thi hành nữa chứ không phải là trì hoãn thi hành như nhiều quốc gia trên thế giới. Hình phạt tử hình đã bị loại trừ sẽ được chuyển thành hình phạt tù chung thân.
 
    Thứ hai, luật hình sự Việt Nam quy định khoảng thời gian nuôi con nhỏ làm căn cứ loại trừ hình phạt tử hình ở mức cao so với thế giới. Khoảng thời gian nuôi con nhỏ được Bộ luật hình sự Việt Nam quy định là đến khi đứa trẻ đủ 36 tháng tuổi - thuộc nhóm dài nhất so với các quốc gia đã loại trừ hình phạt tử hình với phụ nữ nuôi con nhỏ trên thế giới được nêu ở trên. Khoảng thời gian này là rõ ràng, chính xác và không cho phép bất kỳ một sự xét lại hay rút ngắn vì bất kể lý do nào hết.
 
    Thứ ba, luật hình sự Việt Nam xác định phạm vi rộng tối đa cho phép áp dụng việc loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ. Tình trạng mang thai, nuôi con nhỏ của người phụ nữ được công nhận tại cả thời điểm phạm tội lẫn thời điểm xét xử hay thi hành án. Theo đó, tình tiết có thai hoặc nuôi con nhỏ hiện diện vào lúc người phụ nữ thực hiện tội phạm, lúc bị xét xử hay đã bị tuyên án nhưng chưa thi hành thì cũng đều khiến cho người ấy được loại trừ hoàn toàn khỏi án tử hình (không áp
dụng cũng như không thi hành). Phân tích, so sánh quy định pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới về vấn đề loại trừ hình phạt tử hình đối với phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ không chỉ cho thấy những ưu điểm, tiến bộ mà còn giúp làm rõ lập trường quyền con người của pháp luật nước ta trong vấn đề này. Nhìn vào quy định pháp luật quốc tế và các nước trên thế giới cho thấy việc loại trừ hình phạt tử hình mặc dù giúp cho người phụ nữ phạm tội được hưởng sự khoan hồng, được thực hiện quyền làm mẹ của mình nhưng chủ yếu vẫn nhằm mục tiêu bảo vệ quyền trẻ em. Sở dĩ khẳng định như vậy là bởi vì, pháp luật quốc tế và đa số các quốc gia chỉ cấm việc thi hành hình phạt tử hình đối với người mẹ để tránh gây nguy hiểm hay bất lợi cho đứa trẻ, đến khi không còn ảnh hưởng đó, người mẹ vẫn phải chịu án tử hình. Tuy có những quốc gia đã cấm cả áp dụng hình phạt tử hình nhưng cũng chỉ cấm nếu khi xét xử xuất hiện tình tiết mang thai, nuôi con nhỏ. Mặc dù khoan hồng hơn việc chỉ cấm thi hành nhưng chủ yếu vẫn đứng trên lập trường quyền trẻ em, lo ngại việc áp dụng hình phạt tử hình vào lúc đó tổn hại cho đứa trẻ mà người phụ nữ đang mang thai, nuôi dưỡng.
 
    Luật hình sự Việt Nam thể hiện rõ ràng đồng thời quan điểm vì quyền trẻ em và vì quyền phụ nữ trong vấn đề này. Luật hình sự Việt Nam cho phép loại trừ hoàn toàn hình phạt tử hình ngay cả khi tình tiết mang thai, nuôi con nhỏ xuất hiện vào lúc thực hiện tội phạm, lúc xét xử chứ không chỉ lúc thi hành hình phạt. Điều đó có nghĩa là người phụ nữ được khoan hồng khỏi hình phạt tử hình mặc dù tại thời điểm áp dụng, thi hành nó không có nguy hiểm cho đứa trẻ nữa. Ví dụ như người phụ nữ mang thai khi phạm tội, đến khi xét xử đứa trẻ đó đã chết, đã lớn hơn 36 tháng tuổi thì người mẹ vẫn không phải chịu án tử hình. Trường hợp hình phạt tử hình đã bị áp dụng mới xuất hiện tình tiết người phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ thì hình phạt đó không bao giờ được áp dụng nữa chứ không phải là trì hoãn đến khi ra khỏi tình trạng mang thai, nuôi con nhỏ. Tựu chung lại, quy định của luật hình sự nước ta cho thấy việc loại trừ hình phạt tử hình ở đây không chỉ vì bảo vệ quyền sống, lợi ích của trẻ em mà còn là sự khoan dung dành cho chính bản thân người phụ nữ phạm tội. Đó là sự bảo hộ toàn diện đối với thiên chức làm mẹ; sự ghi nhận của Nhà nước và xã hội đối với công lao của người mẹ. Điều này làm rõ tính ưu việt, bản chất nhân đạo, vì quyền con người của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
(1) Michael Kronenwetter (2001): “Capital punishment: a reference handbook” (2nd ed.), published by ABC-CLIO Inc, USA, ISBN 1-57607- 432-3, p.3.
(2) “A child’s teeth should not be set on edge because his mother has eaten sour grapes”, Osamor B. (2004), Fundamentals of Criminal Procedure Law in Nigeria, Dee - Sage Nigerian Publishers, p.386.
(3) Hiến chương châu Phi về quyền và phúc lợi của trẻ em (African Charter on the Rights and Welfare of the Child) 1990, Bản tiếng Anh trên website của UNICEF, Xem tại: http://www.unicef.org/esaro/children_youth_5
930.html.
(4) Arab Charter on Human Rights 2004, English version - Translation by D.r Mohammed Amin Al-Midani and revised by Prof. Susan M. Akram, International Law Journal, Boston University, Vol 24:147, 2006, p.147-163.
(5) Roger Hood and Carolyn Hoyle (2008), “The Death Penalty - A Worldwide Perspestive”, Oxford Universsity Press, p.195.
(6) Thông tin cung cấp tại: Cơ sở dữ liệu toàn thế giới về hình phạt tử hình - Xây dựng bởi Liên minh thế giới về chống án tử hình (World Coalition Against the Death Penalty) dưới sự tài trợ của Liên minh châu Âu. Xem tại: http://www.deathpenaltyworldwide.org/women.cfm
(7) Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản (Luật số 131 năm 1948, được sửa đổi bổ sung bởi Luật số 95 năm 2007), Điều 479 khoản 2 và 3. Bản dịch tiếng Việt của Viện kiểm sát nhân dân tối cao năm 2012.
(8) Cơ sở dữ liệu toàn thế giới về hình phạt tử hình, đd.
(9) Cơ sở dữ liệu toàn thế giới về hình phạt tử hình, đd.

Ths. trần thị Hồng Lê
(Học viện Kỹ thuật Quân sự, Bộ Quốc phòng)

;
.