Kiểm soát quyền hành pháp trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Thứ Tư, 29/04/2015, 00:31 [GMT+7]
    Tham nhũng là một trong những nguyên nhân làm giảm sức chiến đấu của Đảng; giảm năng lực quản lý nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo và “làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(1). Bài viết này, tác giả tập trung làm rõ nguy cơ tham nhũng từ sự “tha hóa” quyền hành pháp, từ đó nêu rõ vai trò kiểm soát quyền hành pháp trong đấu tranh PCTN ở Việt Nam.
 
    1. Nguy cơ tham nhũng từ “tha hóa” quyền hành pháp
 
    Trong nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước được phân tách thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. So với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp hoạt động linh hoạt hơn, nó có thể thay đổi, điều chỉnh tùy theo điều kiện thực tế. Chính điều này, quyền hành pháp “vừa là đầu vào, vừa là đầu ra cho quyền lập pháp và quyền tư pháp”(2).
 
    Tuy vậy, cơ quan hành pháp không đơn thuần chỉ là bộ phận được tổ chức ra để thực thi một cách thụ động các quyết định của cơ quan lập pháp, mà là nhánh quyền lực có ảnh hưởng rất lớn đến các nhánh quyền lực khác. Hoạt động hiệu quả của bộ máy hành pháp mới đem lại tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại sự trì trệ, yếu kém, lạm dụng quyền lực trong hoạt động của bộ máy hành pháp sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
 
    Theo nghĩa chung, tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực và sử dụng tùy tiện quyền lực để mưu lợi cá nhân hay nói cách khác, tham nhũng là sự “tha hóa” quyền lực. Trong xã hội còn tồn tại giai cấp, nhu cầu đạt được lợi ích của mỗi người trong xã hội có sự khác nhau, đặc biệt nó còn biểu hiện ngày một quyết liệt, đa dạng hơn trong nền kinh tế thị trường. Khi nắm giữ được quyền lực, đặc biệt là quyền lực nhà nước, con người luôn mong muốn mở rộng quyền lực và sử dụng nó một cách triệt để nhằm biến nó trở thành công cụ hữu hiệu nhằm đạt được những lợi ích cụ thể trong xã hội. “Tham nhũng (…) căn bệnh chung của mọi xã hội có nhà nước, có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự tùy tiện của con người nắm giữ quyền lực nhà nước”(3). Tuy nhiên, “trong mỗi chế độ nhà nước khác nhau, thì tính chất và mức độ tham nhũng cũng khác nhau, phụ thuộc vào bản chất giai cấp, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, vào năng lực và đạo đức của đội ngũ công chức của nhà nước đó”(4). Bên cạnh đó, tính gián đoạn (do nhân dân không tự mình thực hiện trực tiếp mà ủy quyền cho các đại diện) và tính liên tục của quyền lực nhà nước (quyền lực tập thể ủy thác cho các cá nhân) tạo ý chí cá nhân cho những người lãnh đạo, mặc dù phải tuân thủ theo ý chí chung về nguyên tắc, nhưng trong thực tế hoạt động lại có thể trở nên áp đảo, hay thậm chí trở thành ý chí chung. Đây là nghịch lý đặt ra đòi hỏi quyền lực nhà nước phải được kiểm soát(5). Chính vì lý do đó, chủ thể nhận quyền lực của nhân dân luôn có xu hướng mở rộng quyền lực của mình nhằm thỏa mãn các lợi ích riêng. Những nhân viên nhà nước khi được Nhà nước giao quyền, họ thường sử dụng quyền lực đó một cách triệt để và luôn mong muốn mở rộng quyền này thêm nữa, vì những lợi ích mà họ đạt được từ việc sử dụng quyền lực nhà nước vượt ra
ngoài thẩm quyền của họ. Vị trí của họ càng cao thì quyền lực càng lớn và cơ hội đạt được lợi ích càng nhiều. Đây chính là nguyên nhân của nạn tham nhũng trong bộ máy của Nhà nước. Để có thể đẩy lùi được vấn nạn này, yêu cầu kiềm chế, đối trọng quyền lực của những người thực hiện quyền lực nhà nước trong phạm vi nhất định là cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lực của Nhà nước không bị “bóp méo” và quyền lực của nhân dân không bị vi phạm, đó chính là yêu cầu tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước. Điều đó cho thấy, quyền lực nhà nước và quyền lực nhân dân luôn tỷ lệ nghịch với nhau, quyền lực nhà nước được mở rộng bao nhiêu thì quyền lực của nhân dân sẽ bị thu hẹp bấy nhiêu.
 
    Trên thực tế, để bảo đảm đầy đủ thẩm quyền và năng lực thực thi công vụ, các cơ quan hành pháp được tập trung lớn nguồn lực của xã hội và là nơi được trao nhiều chức năng, nhiệm vụ từ giai cấp cầm quyền. Phạm vi hoạt động của quyền hành pháp rất rộng lớn nhằm đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội như: Đánh thuế, thu chi ngân sách nhà nước, thực thi chính sách công và thực thi pháp luật. Chính vì lý do đó, những người sử dụng quyền hành pháp để thực thi công vụ thường dễ tiếm quyền, lộng quyền, lạm quyền hay nói cách khác bị quyền hành
pháp “tha hóa” nếu không được kiểm soát hiệu quả, đây là nguyên nhân căn bản của tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, hách dịch trong hoạt động của cơ quan hành pháp mà xã hội luôn phải đối mặt.
 
    Trong bất cứ nhà nước nào, đặc biệt trong chế độ đại nghị, các nguy cơ “tha hóa” quyền lực nhà nước đều tập trung rõ nét nhất ở cơ quan hành pháp. Các vụ việc tham nhũng, sách nhiễu, cửa quyền, hách dịch… đều chủ yếu diễn ra ở khu vực hành pháp. Trong thực tế, nhằm bảo đảm chức năng quản lý nhà nước, thực hiện được các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, các cơ quan hành pháp luôn có xu hướng mở rộng quyền lực của mình so với các nhánh quyền lực còn lại và tập trung nguồn lực kinh tế - xã hội ngày một nhiều hơn. Ngoài ra, sự thiếu trách nhiệm giải trình, thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động và thu chi ngân sách nhà nước trước nhân dân và các cơ quan nhà nước khác của các cơ quan hành pháp là mảnh đất màu mỡ của tham nhũng. Mức độ tham nhũng tỷ lệ thuận với mức độ độc quyền kết hợp với mức độ bưng bít thông tin và tỷ lệ nghịch với trách nhiệm giải trình.
 
    Như vậy, nguy cơ “tha hóa” quyền lực của các cơ quan hành pháp là một thực tế hiện hữu, cần thiết phải có một cơ chế kiểm soát quyền hành pháp hiệu quả, một mặt, bảo đảm đầy đủ quyền lực cho cơ quan hành pháp hoạt động, mặt khác, kiềm chế chặt chẽ để quyền hành pháp không bị bóp méo, không trở thành công cụ cho quan chức nhà nước có thể lợi dụng để mưu lợi cá nhân, làm phương hại đến quyền lợi của nhân dân và sự tồn vong của xã hội. 
 
    2. Kiểm soát quyền hành pháp trong pctn ở nước ta
 
    Kiểm soát quyền hành pháp là cơ chế chính trị - pháp lý được các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện bằng phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, tài phán, phản biện xã hội, v.v... nhằm bảo đảm quyền hành pháp được thực hiện liên tục, đúng đắn và đầy đủ theo pháp luật, phát huy hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chính sách công, pháp luật và điều hành tốt mọi hoạt động kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân và Nhà nước.
    
    Trên thực tế, những cá nhân được Nhà nước giao quyền thay mặt Nhà nước (nắm giữ quyền lực) thực thi công vụ luôn có xu hướng lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực công thành quyền lực tư. Những người này sử dụng quyền lực nhà nước để mưu lợi cá nhân, xâm hại đến lợi ích công dân, lợi ích cộng đồng và xã hội, nghiêm trọng hơn là vi phạm về chế độ dân chủ trong nhà nước và xã hội. Để duy trì và phát huy dân chủ trong nhà nước và trong xã hội, quyền lực nhà nước phải được kiểm soát, trong đó trọng tâm là kiểm soát quyền hành pháp vì “xét cho cùng, trung tâm hoạt động của Nhà nước mỗi quốc gia là hoạt động của hành pháp”(6). Kiểm soát quyền hành pháp nhằm ngăn chặn quyền hành pháp bị lạm quyền, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhân dân, phát huy dân chủ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành pháp. Thực tiễn ở nước ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi”(7). Trong quá trình thực thi công vụ, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn, nhiều cán bộ, công chức đã đưa ra những quyết định sai trái làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, “khoảng 12% số văn bản được kiểm tra do cơ quan chức năng ban hành đã bị phát hiện có dấu hiệu trái luật”(8). Hơn nữa, trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ một số cơ quan nhà nước đã hành động mang tính cường quyền, trái pháp luật, áp đặt nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân như vụ cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
 
    Thực tế này cho thấy, kiểm soát quyền hành pháp ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Để phát huy vai trò kiểm soát quyền hành pháp trong công tác PCTN ở Việt Nam cần thực hiện tốt những nội dung sau:
 
    Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về nguy cơ tham nhũng từ sự tha hóa quyền hành pháp và vai trò kiểm soát quyền hành pháp trong đấu tranh PCTN.
 
    Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền hành pháp nhằm phát huy cơ chế này trong PCTN ở nước ta hiện nay. Trong đó, Đảng và Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:
 
    - Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện kiểm soát quyền hành pháp ở nước ta, như: Xây dựng cơ sở pháp lý để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân thực hiện giám sát và phản biện xã hội; hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo đảm cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước; hoàn thiện pháp luật về thực hành dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân; hoàn thiện pháp luật về bầu cử theo hướng: Thông tin về ứng cử viên được công khai rõ ràng hơn, các cuộc tiếp xúc cử tri được thực hiện rộng rãi hơn và cam kết về trách nhiệm của ứng cử viên với cử tri được coi trọng.
 
    - Hoàn thiện cơ sở pháp lý về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đối với cơ quan hành pháp. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về kê khai tài sản của cán bộ, công chức. Tiến hành kiểm tra tài chính chặt chẽ đối với thu nhập và tài sản của những người có chức vụ, quyền hạn, đồng thời công bố công khai trong tổ chức, cơ quan mà cán bộ, công chức làm việc và tại địa bàn nơi cán bộ, công chức sinh sống. 
 
    - Hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tiếp cận thông tin theo hướng công dân được tự do tiếp cận thông tin của Nhà nước (trừ những thông tin liên quan đến bí mật quốc gia, an ninh, quốc phòng), cho phép họ có cơ hội được thông báo về việc chính quyền đang làm gì cho họ, tại sao và bằng cách nào.
 
    - Hoàn thiện năng lực kiểm soát quyền hành pháp của các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội: 
 
    + Tăng cường chất lượng giám sát của các cơ quan của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, có trọng tâm, trọng điểm, chuyên sâu. Trên tinh thần đó, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội; tăng cường đại biểu chuyên trách; xây dựng các thiết chế giám sát độc lập của Quốc hội, trong đó nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán nhà nước và nghiên cứu xây dựng thiết chế thanh tra Quốc hội.
 
    + Kiểm soát trong nội bộ cơ quan hành pháp cần tập trung vào đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát, thanh tra của chính quyền cấp trên với chính quyền cấp dưới và giữa các cơ quan chính quyền trong cùng cấp với nhau. Theo đó, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra các bộ cần tập trung vào các nội dung chính, những vấn đề nhạy cảm, bức xúc trong xã hội hiện nay như quản lý và sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; tăng cường thanh tra đột xuất; trong quá trình thanh tra cần phối hợp chặt chẽ
với thanh tra địa phương, ban thanh tra nhân dân, các đoàn thể nhân dân.
 
    + Cơ quan tư pháp kiểm soát đối với cơ quan hành pháp theo hướng tăng tính độc lập và thẩm quyền cho hệ thống Tòa án, chuyên nghiệp hóa hoạt động tư pháp; nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án hành chính. 
 
    + Hoàn thiện cơ chế Đảng Cộng sản kiểm soát đối với cơ quan hành pháp theo hướng xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực ngay trong nội bộ Đảng. Cơ chế này không chỉ dừng lại ở việc thực hiện tự phê bình và phê bình, kiểm điểm định kỳ, mà phải được cụ thể hóa bằng các biện pháp có đủ sức răn đe.
 
    + Hoàn thiện hoạt động kiểm soát của các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành pháp theo hướng từng bước phi công chức hóa đội ngũ cán bộ làm việc trong các tổ chức chính trị - xã hội, hướng đến việc trả phụ cấp cho những người làm công tác chuyên trách theo thỏa thuận và theo năng lực hoạt động của họ; các tổ chức chính trị - xã hội phải vận động theo hướng độc lập trong việc chủ động xây dựng bộ máy và chương trình làm việc cho riêng mình.
 
    + Hoàn thiện hoạt động kiểm soát của nhân dân đối với cơ quan hành pháp theo hướng nâng cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật của nhân dân, nâng cao dân trí và có biện pháp cụ thể để khuyến khích, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia đối thoại với đảng viên, cán bộ, công chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước. Tiếp tục phát huy vai trò của cơ quan truyền thông trong việc thông tin, định hướng dư luận, đấu tranh chống tiêu cực, bảo vệ công lý, lẽ phải, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X), Nxb CTQG, H.2006, tr.12.
(2) GS, TS. Trần Ngọc Đường (Chủ biên): Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb CTQG, H.2011, tr.309.
(3) GS, TS. Nguyễn Đăng Dung: Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, H.2010, tr.17.
(4) PGS, TSKH. Phan Xuân Sơn - ThS. Phạm Tiến Lực: Nhận diện tham nhũng và các giải pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, H.2008, tr.17.
(5) TS. Trịnh Thị Xuyến: Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, H.2008, tr.31. 
(6) GS, TS. Nguyễn Đăng Dung: Hạn chế sự tùy tiện của cơ quan nhà nước, Nxb Tư pháp, H.2010, tr.163.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.94.
(8) TS. Nguyễn Bá Chiến - ThS. Bùi Huy Tùng: Bàn về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Quản lý nhà nước, 8 (199), 2012, tr.4-5.

Ths. Đặng Viết Đạt
(Học viện Chính trị khu vực IV)

;
.