Kết quả giám sát việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 – 2012
Ngày 26-12-2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã ban hành Nghị quyết số 552/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Đoàn giám sát “Việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012”. Đoàn giám sát đã tổ chức giám sát việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đối với Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (Luật THTK, CLP) trong đầu tư dự án, công trình sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ (TPCP); việc ban hành và tổ chức thực hiện VBQPPL về quản lý và sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2006 – 2012; xem xét báo cáo và làm việc với Chính phủ, các bộ, ngành, UBND của 22 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tổ chức giám sát thực tế tại 70 công trình, dự án có sử dụng nguồn vốn TPCP. Kết quả như sau:
1. Về việc ban hành VBQPPL về THTK, CLP và các VBQPPL khác liên quan đến thực hiện vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2006-2012
Qua giám sát cho thấy, Luật THTK, CLP đã hình thành cơ sở pháp lý khá đầy đủ nhằm THTK, CLP trong đầu tư xây dựng cơ bản; góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng, hạn chế lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng nguồn vốn TPCP. Các VBQPPL nhìn chung được ban hành kịp thời, phù hợp với Luật THTK, CLP, có chú trọng tính hợp lý, thống nhất với các VBQPPL liên quan, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành nền kinh tế nói chung, đầu tư từ nguồn vốn NSNN và vốn TPCP nói riêng.
Tuy nhiên, việc ban hành VBQPPL về THTK, CLP trong đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng NSNN và VBQPPL liên quan đến nguồn vốn TPCP còn một số tồn tại, hạn chế: Một số văn bản chưa tuân thủ quy định về quy trình và thẩm quyền ban hành VBQPPL. Các văn bản chưa bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất, còn trùng lắp, pháp điển hóa chưa cao. Công tác quy hoạch hiện đang được điều chỉnh bằng nhiều VBQPPL khác nhau, không bảo đảm tính thống nhất, nhất là giữa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch xây dựng (gồm cả quy hoạch đô thị) và quy hoạch sử dụng đất. Quy hoạch phát triển ngành, vùng, tỉnh chưa đảm bảo sự phối hợp thống nhất, liên kết vùng, miền, quốc gia. Các quy định về tạm ứng vốn đầu tư XDCB được điều chỉnh nhiều lần, gắn với điều kiện, hoàn cảnh của từng giai đoạn và có những tác dụng nhất định, song có thời điểm quy định chưa chặt chẽ dẫn đến nhiều nhà thầu lợi dụng cơ chế để tạm ứng khi chưa có khối lượng thực hiện hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích; nhiều công trình sau khi tạm ứng vốn đã không được triển khai theo đúng tiến độ, nhiều trường hợp không thu hồi được vốn đã tạm ứng.
Nhiều VBQPPL chưa bảo đảm tính cụ thể, minh bạch. Một số quy định trong Luật THTK, CLP chưa được hướng dẫn kịp thời, dẫn đến việc triển khai thực hiện không thống nhất. Cụ thể: Từ Điều 26 đến Điều 34 của Luật THTK, CLP quy định về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức và những người có liên quan vi phạm quy định về đầu tư XDCB thì phải bồi thường, xử lý hành chính, kỷ luật,... nhưng do chưa được hướng dẫn cụ thể nên trong thực tế, chưa xử lý được trường hợp nào thuộc về trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị. Khoản 2 Điều 34 quy định: “Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, lễ khánh thành đối với công trình quy định tại điểm a khoản 1 Điều này và quy định việc tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, lễ khánh thành đối với công trình quy định tại điểm b khoản 1 Điều này” nhưng không hướng dẫn quy định thế nào là công trình có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, dẫn đến việc tổ chức lễ động thổ, khởi công, khánh thành ở nhiều dự án đầu tư, gây lãng phí không nhỏ nguồn lực tài chính.
Việc phân cấp toàn bộ cho chủ đầu tư phê duyệt thiết kế, dự toán (Luật Xây dựng) và phê duyệt các bước lựa chọn nhà thầu (Luật Đấu thầu) chưa đi đôi với việc xác định năng lực quản lý của chủ đầu tư, chưa quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện năng lực và trách nhiệm trong bảo đảm chất lượng công trình, dự án của các chủ thể tham gia dự án, đặc biệt là năng lực của chủ đầu tư. Đây là một nhược điểm làm ảnh hưởng đến hiệu quả dự án, nhất là khi thực hiện phân quyền cho chủ đầu tư mạnh mẽ, triệt để như quy định hiện nay.
Việc ban hành VBQPPL trong một số trường hợp còn thiếu khả thi do chưa tính tới khả năng thực hiện, chưa bảo đảm phù hợp giữa ban hành chính sách với nguồn lực thực hiện. Theo Nghị quyết của Quốc hội, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với thực hiện vốn TPCP là hoàn thành đường đến trung tâm các xã vào năm 2010. Tuy nhiên đến nay, trong giai đoạn 2012 - 2015 vẫn còn rất nhiều dự án đường đến trung tâm xã chưa hoàn thành, thậm chí nhu cầu vốn để hoàn thành sau năm 2015 vẫn còn lớn. Mục tiêu của Đề án kiên cố hóa trường lớp học đề ra là triển khai và hoàn thành trong giai đoạn 2008 - 2012 nhưng đến nay, mới có 93.063 phòng học trên cả nước đã được xây dựng, đạt 65,5% so với kế hoạch cả giai đoạn và 22.997 phòng công vụ giáo viên đã được xây dựng, chỉ đạt 40,6% kế hoạch cả giai đoạn.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế nêu trên là do chưa tuân thủ nghiêm Luật ban hành VBQPPL, nhất là chưa thực hiện đúng quy trình ban hành VBQPPL; công tác kiểm tra, kiểm soát, giám sát việc ban hành các VBQPPL chưa tốt. Một số bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm cập nhật, hệ thống hóa, rà soát hệ thống văn bản; thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương; một số vấn đề chưa đạt được sự thống nhất cao về mục tiêu, quan điểm và nguồn lực để tổ chức thực hiện. Nhiều VBQPPL liên quan đến quản lý, sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ chưa chú trọng đến đánh giá tác động toàn diện của chính sách, nhất là đối với khả năng của ngân sách nhà nước, tính khả thi và điều kiện thực tiễn để bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ.
2. Về tổ chức thực hiện Luật THTK, CLP và các VBQPPL khác liên quan đến thực hiện vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2006 - 2012
Qua giám sát cho thấy, từ năm 2006 đến năm 2012, trong lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ký túc xá sinh viên, di dân tái định cư đã bố trí vốn TPCP thực hiện 2.682 dự án (tương đương 2.863 dự án và tiểu dự án) với TMĐT ban đầu là 409.415,5 tỷ đồng. Tính đến thời điểm giao kế hoạch năm 2012, các dự án nêu trên đã điều chỉnh TMĐT lên 684.794,5 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành được 2.029 dự án.
Về cơ bản, các bộ, ngành, địa phương đã tuân thủ các quy định về quản lý, sử dụng nguồn vốn TPCP. Công tác giải ngân vốn TPCP được tăng cường trong những năm gần đây. Việc tổ chức, triển khai thực hiện các dự án sử dụng nguồn vốn TPCP giai đoạn 2006 - 2012 đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm; nhiều dự án đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và bước đầu phát huy hiệu quả. Tính chung trong cả giai đoạn 2006 - 2012, tỷ lệ giải ngân khá cao. Tình trạng nợ khối lượng XDCB trong thực hiện vốn TPCP bước đầu đã được cải thiện. Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực chỉ đạo, triển khai việc cắt, giảm, giãn, hoãn tiến độ, chuyển đổi hình thức đầu tư đối với các dự án theo nghị quyết của Quốc hội, Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ. Việc phân bổ và giao vốn TPCP trung hạn giai đoạn 2012 - 2015 đã tạo điều kiện cho các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc sắp xếp, bố trí nguồn lực theo thứ tự ưu tiên, trong đó tập trung bố trí vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành trong các năm 2012 - 2013, giảm dần tỷ lệ nợ đọng trong XDCB, giảm thiểu tình trạng lãng phí do bố trí vốn thiếu tập trung, dàn trải.
Các dự án, công trình hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng là những công trình quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu của quốc gia, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh khó khăn; nâng cấp hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục, ký túc xá sinh viên, đặc biệt là những tuyến đường giao thông quan trọng của đất nước, đường tuần tra biên giới, đường ô tô đến trung tâm xã, các công trình thủy lợi quan trọng vùng nông thôn, vùng núi còn nhiều khó khăn; tăng cường công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân; xóa bỏ trường lớp tạm, xây dựng nhà ở cho giáo viên ở vùng sâu, vùng xa. Cụ thể một số lĩnh vực như sau:
- Lĩnh vực giao thông: giai đoạn 2006 - 2012 có 1.016 dự án (tương đương với 1.197 dự án và tiểu dự án), với TMĐT ban đầu là 204.774,3 tỷ đồng, TMĐT điều chỉnh là 351.752,8 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành 771 dự án. Về cơ bản, các dự án, công trình thuộc lĩnh vực giao thông được đầu tư từ nguồn vốn TPCP là những dự án quan trọng, cấp bách, góp phần nâng cấp hệ thống quốc lộ, xây dựng mới một số tuyến đường quốc phòng quan trọng và hạ tầng giao thông nông thôn. Những dự án, công trình sử dụng nguồn vốn TPCP đã phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng, an toàn giao thông, thúc đẩy sản xuất phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông thương giữa các vùng, miền, khai thác, phát huy tiềm năng của các địa phương, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc và các vùng khó khăn trong đó có khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
- Lĩnh vực thủy lợi: giai đoạn 2006 - 2012 có 712 dự án, TMĐT ban đầu là 85.056,4 tỷ đồng, TMĐT điều chỉnh là 180.319,9 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành được 641 dự án. Các công trình thủy lợi hoàn thành đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi trên toàn quốc, tăng diện tích tưới tiêu, ngăn mặn, giữ ngọt, cấp nước sinh hoạt. Ngoài ra, các công trình còn phát huy hiệu quả trong nuôi trồng thuỷ sản, giảm lũ, cải thiện môi trường tự nhiên, cấp nước công nghiệp, phát triển nguồn điện, phát triển du lịch. Đặc biệt đã giải quyết được một phần vấn đề thiếu nước sản xuất, nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc miền núi.
- Lĩnh vực y tế: giai đoạn 2006 - 2012 có 856 dự án, với TMĐT ban đầu là 62.280 tỷ đồng, TMĐT điều chỉnh 85.563,7 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành 568 dự án. Các dự án bệnh viện tuyến huyện, bệnh viện đa khoa và chuyên khoa tỉnh, bệnh viện trung ương khu vực sử dụng nguồn vốn TPCP hoàn thành đã góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh do người dân ngay trên địa bàn, giảm tải cho tuyến trên. Một số trang thiết bị y tế công nghệ cao được đầu tư cùng với đội ngũ y, bác sỹ được đào tạo đã bước đầu đáp ứng yêu cầu chuyên môn.
- Chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên: có 95 dự án, TMĐT ban đầu là 19.539,7 tỷ đồng, TMĐT điều chỉnh là 19.695,8 tỷ đồng. Đến hết năm 2012 đã hoàn thành được 46 dự án. Các dự án ký túc xá sinh viên hoàn thành đã góp phần bổ sung khoảng 330.000 chỗ ở cho học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề tại 29 tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên gia đình nghèo, khó khăn trong học tập và sinh hoạt, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, an ninh, trật tự ở khu vực các trường đại học, cao đẳng.
- Đề án kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ giáo viên: có tổng nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2008 - 2012 là 30.894,9 tỷ đồng, đạt 124,5% kế hoạch, trong đó TPCP là 17.056,9 tỷ đồng. Đã hoàn thành 84.155 trong tổng số 93.228 phòng học đang triển khai và 22.114 trong tổng số 23.142 phòng nhà công vụ cho giáo viên đang triển khai. Qua giám sát cho thấy, Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà ở công vụ cho giáo viên là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Đối tượng thụ hưởng trực tiếp là giáo viên, học sinh ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện vật chất phục vụ công tác giảng dạy và học tập còn rất nhiều khó khăn. Chương trình đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, giảm bớt khó khăn về tình trạng thiếu phòng học, dần xóa bỏ tình trạng học ba ca, phòng học tạm, tranh tre, nứa lá, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên, học sinh yên tâm giảng dạy và học tập.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai thực hiện vốn TPCP giai đoạn 2006 - 2012 còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế:
- Điều chỉnh tăng TMĐT quá lớn ở hầu hết các dự án dẫn đến mất cân đối về nguồn vốn, nhiều dự án điều chỉnh TMĐT do tăng giá, điều chỉnh yếu tố kỹ thuật, tăng quy mô chưa hợp lý, không đúng với quy định của pháp luật.
- Việc phân bổ vốn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2006 - 2012 còn dàn trải; bổ sung nhiều mục tiêu, số lượng dự án tăng nhanh, dẫn đến thiếu vốn; nhiều dự án đang triển khai phải cắt, giảm, giãn, hoãn tiến độ, chuyển đổi hình thức đầu tư, gây lãng phí nguồn lực.
- Cơ chế phân bổ vốn TPCP chưa hợp lý, không có tiêu chí phân bổ cụ thể mà phân bổ theo dự án, dẫn tới chưa thực sự công bằng giữa các vùng, miền, giữa các địa phương, dễ tạo ra cơ chế “xin - cho”; nhiều dự án chưa bảo đảm tính cấp bách, cần thiết phải đầu tư bằng nguồn vốn TPCP theo mục tiêu ban đầu mà Quốc hội, UBTVQH đã quyết định.
- Việc thực hiện Luật THTK, CLP trong đầu tư XDCB bằng nguồn vốn TPCP trong giai đoạn 2006 - 2012 còn chưa nghiêm, bộc lộ khá nhiều tồn tại, hạn chế, yếu kém. Chất lượng quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở một số bộ, ngành và địa phương chưa cao, thiếu sự phối hợp, lồng ghép và phù hợp với khả năng kinh tế và cân đối nguồn lực. Nhiều dự án ở các bộ, ngành và địa phương thường vượt quá khả năng kinh tế, không đủ nguồn lực thực hiện, dẫn tới thiếu vốn nghiêm trọng, nợ đọng xây dựng cơ bản, nhiều dự án dở dang, gây lãng phí lớn cho NSNN. Chất lượng khảo sát, thiết kế ở một số dự án chưa đạt yêu cầu.
- Sai phạm trong khâu khảo sát thiết kế, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, hầu như không bị xử lý kỷ luật mà có dự án còn được phê duyệt điều chỉnh, bổ sung thiết kế và khắc phục bằng việc bổ sung nguồn vốn TPCP để hoàn thiện.
- Một số địa phương, bộ, ngành cho phép đầu tư điều chỉnh, bổ sung quy mô dự án hoặc phê duyệt lại quy mô dự án quá mức, bổ sung thêm hạng mục, khối lượng so với kế hoạch ban đầu, làm tăng TMĐT, tăng mức bố trí vốn của dự án.
- Công tác lập, thẩm tra phê duyệt dự toán tại một số dự án còn hạn chế, năng lực yếu nên chưa phát hiện hết sai sót. Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, qua thanh tra, kiểm tra giai đoạn 2006 - 2012 đã phát hiện: không cho thanh toán 16.801 tỷ đồng, huy động vốn đầu tư không đúng 59,3 tỷ đồng, giải ngân vốn không đúng 32,3 tỷ đồng, tạm ứng và thanh toán vốn không đúng 858 tỷ đồng, thẩm định phê duyệt TMĐT không đúng chế độ 637,8 tỷ đồng, lập, thẩm định phê duyệt dự toán không đúng chế độ 2.267,9 tỷ đồng.
- Trên thực tế, nhiều trường hợp lựa chọn nhà thầu không bảo đảm năng lực; việc chỉ định thầu còn rộng, có hiện tượng lạm dụng cơ chế chỉ định thầu, có dự án được thực hiện cơ chế chỉ định thầu với TMĐT lớn; tính minh bạch trong đấu thầu chưa bảo đảm, làm giảm hiệu quả đầu tư.
- Tình trạng các dự án dở dang, kéo dài, không bảo đảm tiến độ trong thực hiện, thi công các dự án, chậm đưa công trình, dự án vào sử dụng. Chỉ có 2.027/2.863 dự án sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2006 - 2012 hoàn thành, trong đó rất nhiều dự án chậm tiến độ, còn trên 800 dự án chưa hoàn thành. Nguyên nhân chính là do thiếu vốn, không bảo đảm bố trí đủ vốn theo đúng tiến độ. Mặt khác, việc kéo dài, chậm tiến độ còn do nhiều công trình chậm giải phóng mặt bằng, năng lực nhà thầu kém.
- Công tác quản lý, phân bổ, cấp phát, thanh toán và quyết toán vốn có lúc, có nơi còn buông lỏng, chưa tuân thủ quy định. Còn tình trạng phân bổ ngoài danh mục, phân bổ vượt mức kế hoạch vốn Trung ương giao, vượt TMĐT; bố trí vốn cho một số dự án chưa thực sự cấp bách, không thuộc đối tượng sử dụng vốn TPCP; phân bổ thiếu danh mục dự án so với danh mục được Bộ KHĐT giao, thời gian phân bổ kế hoạch vốn kéo dài; phân bổ cho dự án khởi công mới chưa đủ điều kiện bố trí kế hoạch vốn; phân bổ vốn chưa sát với tiến độ thực hiện dẫn đến một số dự án không giải ngân được theo kế hoạch vốn, phải điều chỉnh cho các dự án khác hoặc vốn bị dư thừa trong khi các dự án khác phải chờ vốn và nợ khối lượng hoàn thành lớn. Giao kế hoạch vốn có dự án chưa căn cứ vào tiến độ, khả năng thực hiện, giao cho một số dự án chưa triển khai được... dẫn đến số vốn đã bố trí nhưng chưa được sử dụng còn lớn. Có trường hợp giải ngân vốn TPCP vượt kế hoạch được giao; phân bổ vốn vẫn dàn trải, chưa tập trung dứt điểm để hoàn thành các dự án, nhiều dự án nhu cầu vốn sau 2015 cần rất ít nhưng vẫn không được bố trí dứt điểm trong kế hoạch trung hạn 2012 - 2015. Nhiều dự án được ứng trước vốn TPCP khá lớn, một số địa phương, bộ ngành chưa thực hiện hoàn ứng theo quy định.
- Việc thanh toán còn có trường hợp chưa tuân thủ quy định của pháp luật. Thanh toán khi chưa có khối lượng; nghiệm thu thanh toán chưa chính xác, chưa nghiệm thu theo thực tế thi công. Nhiều dự án hoàn thành nhưng hồ sơ quyết toán làm chậm hoặc công trình đã hoàn thành nhưng vẫn chưa bố trí đủ vốn để hoàn thiện, dẫn đến một số dự án hoàn thành sau nhiều năm chưa được quyết toán.
3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
- Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là Luật THTK, CLP ở các cấp, các ngành chưa được thường xuyên, dẫn đến nhận thức không đầy đủ và tổ chức thực hiện trên thực tế chưa nghiêm các quy định của Luật THTK, CLP và các luật chuyên ngành khác trong lĩnh vực đầu tư XDCB. Sự lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện THTK, CLP trong đầu tư XDCB chưa chặt chẽ, sâu sát; chưa phát huy được sức mạnh giám sát của các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân đối với công tác THTK, CLP; việc xử lý lãng phí có nơi, có lúc còn chưa nghiêm.
- Chủ trương đầu tư từ nguồn vốn TPCP là đúng đắn, song phạm vi, đối tượng áp dụng tại một số thời điểm chưa hợp lý, không bảo đảm cân đối giữa khả năng tài chính với chính sách được ban hành; cơ chế phân cấp đầu tư chưa phù hợp, chưa gắn phân cấp với trách nhiệm, chưa thực hiện nguyên tắc phân bổ trên cơ sở nguồn lực, tiềm năng thực có.
- Các quy định pháp luật chưa đảm bảo tính hợp lý, chặt chẽ, thiếu cụ thể nhất là Luật THTK, CLP dẫn đến thiếu nhiều cơ sở pháp lý khi áp dụng; các quy định về quyền hạn chưa đi đôi với chế độ trách nhiệm, chưa có chế tài cụ thể xử lý các sai phạm, kể cả người đứng đầu trong các cơ quan, đơn vị có sai phạm.
- Công tác tham mưu, tổng hợp, quản lý của một số bộ, ngành, địa phương chưa tốt; công tác cải cách hành chính còn chậm; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã có một số kết quả nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu THTK, CLP trong thực tế, thiếu các biện pháp, công cụ phát hiện và xử lý hành vi gây lãng phí vốn, tài sản nhà nước.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Qua giám sát, UBTVQH đã đưa ra một số đề xuất, kiến nghị như sau:
- Sớm sửa đổi đồng bộ Luật THTK, CLP, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, ban hành Luật Đầu tư công gắn với THTK, CLP theo hướng: pháp điển hóa, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, tránh trùng lắp giữa các văn bản liên quan, khắc phục các tồn tại, khiếm khuyết trong hệ thống các văn bản như đã được nêu trong Báo cáo. Cụ thể hóa tối đa các quy định liên quan nhằm tạo căn cứ pháp lý đầy đủ cho tổ chức thực hiện, tránh vận dụng tùy tiện gây thiệt hại cho NSNN.
- Ban hành Nghị quyết về kết quả giám sát việc thi hành Luật THTK, CLP trong sử dụng nguồn vốn TPCP cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012, trong đó nêu rõ những tồn tại, yếu kém, trách nhiệm và hướng xử lý nhằm nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả sử dụng nguồn vốn TPCP. Trước mắt chưa phát hành thêm vốn TPCP vì các bộ, ngành và địa phương đã rà soát, sắp xếp lại danh mục dự án theo mức kế hoạch vốn trung hạn được giao và huy động các nguồn vốn khác để bảo đảm hoàn thành dự án hoặc các hạng mục dự án, phát huy hiệu quả đầu tư. Ưu tiên sử dụng nguồn vốn TPCP dự phòng giai đoạn 2011 - 2015 cho một số dự án đang triển khai thực hiện, còn thiếu vốn thuộc các mục tiêu chính của chương trình TPCP như: đường đến trung tâm xã, bệnh viện huyện, thủy lợi nhỏ,... của các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và một số công trình, dự án cấp bách, trọng điểm quốc gia đang sử dụng nguồn vốn TPCP nhưng còn thiếu vốn. Sau năm 2014, Chính phủ đánh giá, tổng kết lại toàn bộ chương trình vốn TPCP, từ đó tính toán khả năng huy động vốn, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định cơ chế đầu tư, quản lý đối với chương trình TPCP.
- Các bộ, ngành, địa phương rà soát lại tổng mức đầu tư của tất cả các dự án, phân loại và kiên quyết không bố trí vốn cho phần điều chỉnh tổng mức đầu tư không phù hợp. Tiếp tục thực hiện kế hoạch vốn TPCP trung hạn giai đoạn 2013 - 2015, sử dụng nguồn vốn ngân sách tập trung, các nguồn lực khác, chuyển đổi hình thức đầu tư, đẩy mạnh xã hội hóa để bổ sung nguồn vốn đầu tư hoàn thành các dự án trong danh mục sử dụng nguồn vốn TPCP.
- Chấn chỉnh lại công tác quy hoạch, đầu tư XDCB, theo đó quy hoạch phải đi đôi với khả năng thực hiện, mang tính thống nhất, đồng bộ; chỉ đạo các bộ quản lý ngành cần rà soát lại quy hoạch, có hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể đối với từng địa phương, bảo đảm thống nhất; xem xét lại cơ chế phân cấp, công tác thẩm định, đấu thầu, chỉ định thầu, quyết toán công trình.
- Tổ chức kiểm điểm trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong công tác tham mưu, thực hiện vốn TPCP, dẫn đến nhiều sai sót, lãng phí trong quản lý và sử dụng vốn TPCP giai đoạn 2006 - 2012 qua kết quả giám sát, thanh tra, kiểm toán và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
- Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước phối hợp bổ sung vào kế hoạch năm 2013 và kế hoạch các năm tiếp theo để tiến hành thanh tra, kiểm toán toàn diện chương trình vốn TPCP, trong đó tập trung vào một số dự án, công trình có biểu hiện thất thoát, lãng phí, hiệu quả đầu tư không cao như đã nêu trong Báo cáo và các dự án có TMĐT điều chỉnh tăng cao so với phê duyệt ban đầu.
Phương Thảo