Kết quả triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ban hành từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7-2013

Thứ Ba, 01/10/2013, 09:08 [GMT+7]

1. Kết quả triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đến hết tháng 7-2013, Quốc hội đã ban hành 46 văn bản, trong đó có 36 luật, 03 Nghị quyết có chứa quy phạm; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 07 pháp lệnh. Trong số đó, Chính phủ trình 35 luật, 6 pháp lệnh và 3 Nghị quyết; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trình 1 luật; Tòa án nhân dân tối cao trình 01 luật.

Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII
Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII

Việc tuyên truyền, phổ biến các luật, pháp lệnh đã được các bộ, ngành chú trọng quan tâm ngay từ quá trình soạn thảo đến khi văn bản được thông qua, tổ chức thi hành; được thực hiện thông qua nhiều hình thức, từ soạn thảo tài liệu, xây dựng chuyên đề, chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng đến việc tổ chức các hội nghị, hội thảo… Việc gắn công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật với công tác tuyên truyền, phổ biến luật, pháp lệnh bước đầu đã phát huy hiệu quả tích cực. Các bộ, ngành, địa phương đã tập trung nguồn lực tổ chức tập huấn, hướng dẫn chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm thi hành và áp dụng các quy định của luật, pháp lệnh. Việc bố trí kinh phí, các điều kiện bảo đảm triển khai thi hành luật, pháp lệnh được chú trọng hơn.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện để bảo đảm việc ban hành văn bản quy định chi tiết đúng thời hạn. Chính phủ đã xác định rõ nhiệm vụ triển khai thi hành luật, pháp lệnh, đặc biệt là việc xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh là một trong các nhiệm vụ trọng tâm và đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện. Kết quả là so với những năm trước đây, chất lượng văn bản quy định chi tiết đã được nâng cao một bước; về cơ bản việc xây dựng, ban hành văn bản thực hiện đúng thẩm quyền và tuân thủ trình tự, thủ tục và hình thức ban hành; tính khả thi, công khai và minh bạch cũng được bảo đảm hơn. Tình trạng nội dung văn bản quy định chung chung mang tính nguyên tắc hoặc giao lại cho các Bộ tiếp tục ban hành thông tư đã giảm đáng kể; đã hạn chế tối đa tình trạng “chép lại” các nội dung quy định của luật, pháp lệnh, chỉ quy định chi tiết những điều khoản được luật, pháp lệnh giao.

Những kết quả đạt được đã góp phần tích cực vào việc đưa các luật, pháp lệnh vào cuộc sống, tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật; kịp thời giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh do ảnh hưởng của khủng hoảng và suy thoái kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội theo các nghị quyết hàng năm của Quốc hội; phục vụ ngày càng tốt hơn yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Một số vướng mắc, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn tồn tại những hạn chế, vướng mắc:

- Việc triển khai thi hành một số luật, pháp lệnh còn chưa kịp thời, thiếu đồng bộ; công tác tuyên truyền, phổ biến chưa đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao; việc bố trí kinh phí, nguồn nhân lực và các điều kiện bảo đảm còn chưa đầy đủ; một số quy định của luật, pháp lệnh về tổ chức, bộ máy hoặc chế độ, chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống.

- Chất lượng ban hành một số văn bản chưa cao, vẫn còn những nội dung quy định chưa đầy đủ, chưa cụ thể, đã hạn chế, cản trở việc đưa các quy định của pháp luật vào cuộc sống. Vẫn còn tình trạng có văn bản hành chính, điều hành quản lý của các bộ, cơ quan ngang bộ chứa đựng quy phạm pháp luật hoặc có nội dung không phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên.

- Công tác ban hành văn bản quy định chi tiết còn chậm; chưa khắc phục được tình trạng luật, pháp lệnh chờ văn bản hướng dẫn. Đến nay, đối với 35 luật, pháp lệnh đã có hiệu lực, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ mới ban hành được 76/228 văn bản quy định chi tiết, còn 152/228 văn bản chưa được ban hành; đối với 11 luật, pháp lệnh chuẩn bị có hiệu lực mà trong đó có những văn bản sẽ có hiệu lực từ 01-10-2013 thì mới có 01/45 văn bản quy định chi tiết đã được ban hành. Việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành quá lớn làm cho nhiều quy định của luật, pháp lệnh chưa được thực thi, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.

- Một số bộ, ngành chưa thực hiện nghiêm túc một số quy định về trình tự, thủ tục trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản quy định chi tiết. Một số cơ quan chủ trì soạn thảo chưa tiếp thu đầy đủ ý kiến thẩm định, thẩm tra để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản.

Thực trạng trên xuất phát bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau:

- Một là, đất nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều quan hệ xã hội mới được định hình, tính ổn định chưa cao. Công tác xây dựng pháp luật mới được quan tâm thực hiện trong khoảng 20 - 25 năm. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi tư duy pháp lý chưa được triệt để, trong một số trường hợp, pháp luật đòi hỏi phải đi trước, nhưng điều kiện tổ chức thực hiện còn rất nhiều khó khăn.

- Hai là, nhận thức của một số bộ, ngành, địa phương về công tác thi hành luật, pháp lệnh còn chưa thực sự đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức triển khai thi hành, ban hành văn bản quy định chi tiết còn chưa nghiêm; việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch triển khai thi hành các luật, pháp lệnh còn chưa được chú trọng, chưa đảm bảo sự gắn kết liên tục giữa xây dựng và thi hành pháp luật.

- Ba là, một số luật, pháp lệnh giao nhiều nội dung phải quy định chi tiết và những vấn đề cần quy định chi tiết thường là những vấn đề khó, phức tạp, phải ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết, do vậy, đòi hỏi mất nhiều thời gian, công sức tổ chức nghiên cứu, khảo sát thực tế. Có luật, pháp lệnh quy định về chính sách xã hội hóa, kiện toàn tổ chức bộ máy, chế độ chính sách chưa rõ, chưa cụ thể dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, khó khăn trong quá trình phối hợp quy định chi tiết. Một số quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã bộc lộ những bất cập, không còn phù hợp (quy định về việc ban hành văn bản theo trình tự thủ tục rút gọn còn máy móc; việc xây dựng ban hành thông tư, thông tư liên tịch chưa có cơ chế kiểm tra trước; quy trình xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh tại 2 kỳ họp của Quốc hội…).

- Bốn là, công tác phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương còn thiếu chặt chẽ, khoa học; việc phân công trách nhiệm trong việc tuyên truyền, phổ biến, bảo đảm các điều kiện, nguồn lực thi hành luật, pháp lệnh còn chưa rõ ràng; thiếu cơ chế cụ thể để kiểm tra, giám sát việc thi hành ở từng bước, từng giai đoạn. Các bộ, ngành chưa chủ động đề xuất, kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích luật, pháp lệnh khi phát sinh những vấn đề khó, phức tạp, ý kiến khác nhau trong quá trình xây dựng văn bản quy định chi tiết.

3. Một số giải pháp, kiến nghị

- Nâng cao nhận thức của các bộ, ngành, địa phương và đề cao trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, văn bản quy định chi tiết. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ quan của Chính phủ trong việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành.

- Cần có lộ trình cụ thể, rõ ràng các chương trình, kế hoạch để triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nhất là việc ban hành các văn bản quy định chi tiết để bảo đảm các văn bản này có hiệu lực đồng thời với luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Tổ chức tổng kết thực hiện Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề xuất những vấn đề đổi mới nhằm hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức xây dựng và thi hành luật.

- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh; khả năng dự báo, phân tích chính sách, tính khả thi, hợp lý của văn bản. Trong trường hợp dự án, dự thảo văn bản không bảo đảm chất lượng, không bảo đảm tiến độ hoặc quá nhiều nội dung chung chung phải chờ hướng dẫn thì kiên quyết đề nghị Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa đưa vào Chương trình xem xét, thông qua.

- Tăng cường công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở kết hợp với công tác theo dõi thi hành pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính nhằm phát hiện kịp thời các văn bản có sai phạm, chưa phù hợp để có kiến nghị khắc phục.

Nguyễn Thảo

(Ban Nội chính Trung ương)

;
.