Cơ sở chính trị, pháp lý trong thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam

Thứ Sáu, 02/05/2014, 06:08 [GMT+7]
1. Thu hồi tài sản tham nhũng và tịch thu tài sản do tham nhũng mà có (gọi chung là thu hồi tài sản tham nhũng) là hoạt động quan trọng và là thước đo hiệu quả của công tác đấu tranh chống tham nhũng. Trong thời gian qua, các cơ quan chức năng trong quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc thu hồi tài sản Nhà nước, của xã hội bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, bên cạnh số tiền, tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng là rất lớn, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của nhân dân; việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, tham nhũng còn gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ tiền, tài sản thu hồi được rất nhỏ so với tổng số thiệt hại do các đối tượng chiếm đoạt(1). Số liệu thống kê cho thấy, tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trên tổng số tài sản bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng gây ra chỉ khoảng dưới 10%(2). Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực tế thu hồi tài sản tham nhũng đạt tỷ lệ thấp, trong đó nguyên nhân trực tiếp là những hạn chế, vướng mắc về cơ sở chính trị, pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng. Bài viết dưới đây tập trung phân tích cơ sở chính trị, pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, bước đầu chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và phương hướng, giải pháp hoàn thiện cơ sở chính trị, pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng.
Cơ sở chính trị, pháp lý trong hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng được hiểu là tổng hợp các nguyên tắc, quan điểm, đường lối chỉ đạo mang tính định hướng và quy định pháp luật cho hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng.  Khoản 1 Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng (PCTN) năm 2005 xác định: “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”. 
Như vậy, có thể hiểu, thu hồi tài sản tham nhũng là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm thu hồi tài sản do người có hành vi tham nhũng chiếm đoạt hoặc tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng, tức là liên quan đến hành vi tham nhũng.  Vấn đề thu hồi tài sản do phạm tội mà có nói chung và do phạm tội về tham nhũng nói riêng được đề cập trong một số văn bản, nghị quyết chuyên đề của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa X), Kết luận Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI); quy định tại các văn bản pháp luật của Nhà nước như: Luật PCTN năm 2005, Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Ngoài ra, Việt Nam đã xác lập trên thực tế các điều kiện nhất định để phòng ngừa, phát hiện và thu hồi tài sản do phạm tội mà có qua các văn bản pháp luật như: Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010; Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2010; Luật phòng, chống rửa tiền năm 2012; hoặc quy định tại các văn bản của Chính phủ triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020.
Đồng chí Phạm Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương phát biểu tại Hội thảo thu hồi tài sản tham nhũng do Ban Nội chính Trung ương tổ chức
Đồng chí Phạm Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương phát biểu tại Hội thảo thu hồi tài sản tham nhũng do Ban Nội chính Trung ương tổ chức
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) nêu rõ: Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng. Áp dụng chính sách khoan hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu
quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng. Nghiên cứu sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng khoan hồng hơn đối với những người đưa hoặc người nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo và nộp lại tài sản trước khi bị phát hiện. Trừng trị nghiêm khắc những đối tượng tham nhũng có tổ chức, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng.
Kết luận 21-KL/TW ngày 25-5-2012 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) nhấn mạnh: Sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn hoặc giảm hình phạt khác đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả. Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 của Chính phủ cũng đưa ra giải pháp nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi pháp luật theo hướng tăng hình thức phạt tiền; miễn trách nhiệm hình sự hoặc giảm hình phạt đối với những đối tượng đã thực hiện hành vi tham nhũng nhưng chủ động khai báo, khắc phục hậu quả; hoàn thiện quy định xử lý tài sản tham nhũng; bổ sung quy định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, bảo đảm cho việc thu hồi, tịch thu tài sản do tham nhũng mà có.  Điều 70 Luật PCTN năm 2005 quy định: Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng; tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước; người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Việc tịch thu tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng được thực hiện bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Người đưa hối lộ... nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì người đưa hối lộ được trả một phần hoặc toàn bộ tiền và tài sản đã dùng để hối lộ.  Ngoài ra, về vấn đề xử lý tài sản tham nhũng, để phù hợp với tinh thần của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên, Điều 71 Luật PCTN
năm 2005 quy định trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp. Chế định thu hồi tài sản tham nhũng được quy định tại Chương V của Công ước với các Điều từ 51 đến 59 với 26 yêu cầu mang tính bắt buộc và 14 yêu cầu mang tính tùy nghi, khuyến nghị. Toàn bộ các quy định trên tạo nên một thể thống nhất, cùng quy định về một vấn đề lớn đó là thu hồi tài sản tham nhũng và hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản thamnhũng, bao gồm03 nhómquy định: (1) Nhóm những quy định chung mang tính nguyên tắc về thu hồi tài sản tham nhũng; (2) nhóm những quy định chung về phòng ngừa, phát hiện việc chuyển tài sản tham nhũng; (3) nhóm những quy định chung về các biện pháp thu hồi tài sản trực tiếp, cơ chế thủ tục và điều kiện hợp tác quốc tế trong tịch thu, trả lại và định đoạt tài sản tham nhũng. Theo đó, phần lớn các quy định tại các chế định này là sự khẳng định lại một trong những mục tiêu chung tối thượng của Công ước là thu hồi tài sản tham nhũng đã được quy định tại Điều 1 của Công ước, đồng thời khái quát các biện pháp tất yếu mà các quốc gia đã và đang áp dụng để thu hồi tài sản tham nhũng và định hình cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.
Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện chế định thu hồi tài sản theo quy định của Công ước với lộ trình thích hợp. Trên thực tế, Việt Nam đã xác lập những cơ sở nhất định cho việc thực hiện; đã có kinh nghiệm thực tiễn nhất định trong hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và theo một số hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam đã ký.
Qua thực tiễn thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ta thời gian qua, về cơ sở chính trị, pháp lý nổi lên một số hạn chế, vướng mắc cơ bản sau: 
Trong một số văn bản của Đảng có quy định về thu hồi tài sản tham nhũng, tuy nhiên, đây là các nội dung khái quát, thể hiện quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc về thu hồi tài sản tham nhũng nên khó vận dụng trong thực tiễn. Luật PCTN cũng đã dành một số điều quy định về thu hồi tài sản tham nhũng nhưng chưa đầy đủ, chỉ quy định về nguyên tắc tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu. Thiếu quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản tham nhũng. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tài sản bị tịch thu phải là tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm, trong khi đó trên thực tế, tài sản do tham nhũng mà có thường được các đối tượng phạm tội cất giấu, che đậy, chuyển hình thức sở hữu (như chuyển cho người thân, hoạt động rửa tiền, mua sắm các phương tiện vật chất có giá trị khác), xa hẳn hoặc rất ít liên quan đến hành vi phạm tội tham nhũng ban đầu. Bộ luật tố tụng hình sự chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi tài sản nói chung, tài sản tham nhũng nói riêng, dẫn đến việc chưa phát huy được trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong quá trình phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng. Các quy định của Luật giám định tư pháp liên quan đến việc giám định tài chính, ngân hàng, xây dựng, đất đai... chưa cụ thể, chưa rõ ràng. Chế tài xử lý khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám định từ chối, né tránh trách nhiệm (dẫn đến việc thực hiện giám định trong lĩnh vực này bị chậm trễ). Mặt khác, do đội ngũ giám định viên, người giám định, tổ chức giám định theo vụ việc tại các Bộ, ngành Trung ương, địa phương còn thiếu nên việc trưng cầu giám định còn gặp nhiều khó khăn; việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác giám định còn vướng nên chưa tháo gỡ được khó khăn hiện nay. Những khó khăn, vướng mắc trên dẫn đến thời gian giám định thiệt hại phục vụ điều tra, xử lý vụ án kéo dài, nhiều trường hợp không xác định được thiệt hại, tạo điều kiện cho các đối tượng tẩu tán tài sản, gây cản trở việc thu hồi tài sản tham nhũng. Chưa xác lập được cơ chế phối hợp trong việc thực hiện thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Luật tương trợ tư pháp thiếu chế định thu hồi tài sản và chưa xác định rõ vấn đề thu hồi tài sản phạm tội thuộc phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự.
 
2. Để nâng cao hiệu quả hoạt động thu hồi tài sản tham nhũng, dưới góc độ cơ sở chính trị, pháp lý, cần thực hiện tốt một số phương hướng, giải pháp sau đây:
 
Một là, bổ sung các văn bản pháp luật quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý, chủ quản trong việc phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối tượng tẩu tán tài sản. Mặt khác, sửa đổi quy định pháp luật theo hướng khi lượng hình phạt, việc hoàn trả tài sản cần được xem là một tình tiết bắt buộc chứ không phải tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Hành vi phạm tội về tham nhũng phải xử lý nghiêm theo khung truy tố, còn việc hoàn trả tài sản tham nhũng là căn cứ giảm nhẹ một phần hình phạt hoặc là căn cứ để giảm án khi chấp hành hình phạt.
 
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng đề cao vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng, quy định bắt buộc trong xử lý tội phạm của nhóm tội phạm về tham nhũng phải áp dụng hình phạt bổ sung thu hồi đủ phần tài sản phạm tội mà có, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm vật chất về thiệt hại của Nhà nước do hành vi phạm tội gây ra. Quy định quá trình điều tra, Cơ quan điều tra có trách nhiệm làm rõ tài sản đang ở đâu, tẩu tán ra sao; thực hiện nghiêm, triệt để quy định thu hồi số tài sản này để khắc phục thiệt hại. Cần bổ sung quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh tài sản thi hành án dân sự. Quy định rõ trong các vụ án tham nhũng phải cho phép áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngay từ khi đủ cơ sở khởi tố một cá nhân nào đó về hành vi tham nhũng để tránh việc “đánh tháo, tẩu tán”.
 
Ba là, tập trung triển khai thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 03-01-2014 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản”. Chính phủ cần có quy định cụ thể để kiểm soát được tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức và bắt buộc mọi giao dịch lớn phải thông qua hệ thống ngân hàng. Quy định như vậy để có thể truy nguyên được những tài sản nào được hình thành vào thời điểm nào, đã được chuyển nhượng, sang tên cho ai… tạo thuận lợi cho việc thu hồi tài sản tham nhũng. 
 
Bốn là, đối với việc kê khai tài khoản ở nước ngoài, cần bổ sung quy định về việc xác định số dư tài khoản ở nước ngoài; bổ sung chế tài giám sát chặt chẽ việc thực hiện kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai; bổ sung quy định về kiểm soát thu nhập đối với cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn; nghiên cứu, đề xuất xây dựng quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân đang hoặc đã giữ chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước. 
 
Năm là, khắc phục những bất cập trong hoạt động giám định tư pháp theo vụ việc phục vụ PCTN; giúp xác định rõ thiệt hại do tham nhũng. Hoàn thiện quy định pháp luật để ngăn chặn các hành vi đối phó che giấu tài sản và kiểm soát chặt chẽ ngay từ đầu tài sản của các đối tượng tham nhũng.  
 
Sáu là, cần quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong việc thực hiện ủy thác hoặc lệnh của cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về xác minh, phong tỏa, thu giữ, tịch thu tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ nước ngoài. Theo đó, cơ quan chức năng của Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại, có quyền yêu cầu nước ngoài xác minh, phong tỏa tài sản có nguồn gốc tham nhũng từ Việt Nam để thu hồi.
Bảy là, có hướng dẫn thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng nói chung, chế định thu hồi tài sản tham nhũng trong Công ước nói riêng. Chú trọng việc đàm phán, ký kết và ưu tiên áp dụng các hiệp định, thỏa thuận mà Việt Nam đã  ký kết có nội dung thu hồi tài sản tham nhũng. Cần xây dựng và bổ sung chế định thu hồi tài sản tham nhũng vào Luật PCTN, Luật tương trợ tư pháp. Bổ sung vào Bộ luật tố tụng dân sự quy định chấp nhận thi hành phần dân sự trong phán quyết hình sự của Tòa án hình sự nước ngoài.
(1) Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Báo cáo kết quả kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, số 33-BC/BCĐ, ngày 08-01-2014.
(2) Chính phủ, Báo cáo công tác PCTN năm 2013, số 391/BC-CP ngày 10-10-2013.

Phạm Anh Tuấn
(Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương)

;
.