Một số điểm mới của dự án Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi)

Thứ Tư, 09/04/2014, 11:46 [GMT+7]
Sau 12 năm thi hành, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001đã có những đóng góp quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động của Quốc hội ngày càng dân chủ, thực chất và hiệu quả hơn; tuy nhiên, đến nay đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Cùng với yêu cầu thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện khác của Đảng và đặc biệt là để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa được Quốc hội thông qua, Quốc hội đã quyết định sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội năm 2001. Theo đó, dự thảo Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi) đã được xây dựng với những nội dung cơ bản của như sau:  
- Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật 
Luật tổ chức Quốc hội hiện hành có nhiều nội dung quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, Quốc hội đã ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hộivà nhiều luật, nghị quyết quy định cụ thể về thẩm quyền cũng như trình tự thực hiện các thẩm quyền này của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Để thuận tiện cho việc thực hiện, dự thảo Luật đã pháp điển hóa một bước các quy định về tổ chức và hoạt động của Quốc, thu hút các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, nguyên tắc tổ chức công việc, mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức khác trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, Quy chế hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quy chế hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội vào Luật tổ chức Quốc hội.
- Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
Dự thảo Luật đã quy định theo hướng:
+ Quy định rõ hơn thẩm quyền của Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội, quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định các chính sách cơ bản về đối ngoại.  
+ Cụ thể hóa thẩm quyền giải thể đơn vị hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; bổ sung thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật. 
+ Cụ thể hóa việc Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng bầu cử quốc gia; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 
+ Cụ thể hóa thẩm quyền, điều kiện, quy trình bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. 
+ Bổ sung quy định về những vấn đề được đưa ra trưng cầu ý dân và nguyên tắc tổ chức trưng cầu ý dân.
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
+Cụ thể hóa quy định về thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc của ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp. 
+ Cụ thể hóa các nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội theo quy định của Hiến pháp mới như phê chuẩn các Phó Chủ tịch, các Ủy viên Hội đồng dân tộc, các Phó Chủ nhiệm, các Ủy viên Ủy ban của Quốc hội; quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.  
+ Bổ sung quy định về hoạt động chất vấn tại phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quy định cụ thể quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; quy định về chế độ chính sách đối với đại biểu Quốc hội, cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy giúp việc Quốc hội.
+ Đổi mới phương thức tham gia xem xét, cho ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quan trọng của quốc gia, các dự án luật, báo cáo giám sát và thực hiện chất vấn tại các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. 
+ Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội về công tác bầu cử với Hội đồng bầu cử quốc gia; làm rõ thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu Quốc hội.
+ Cụ thể hóa vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, tạo sự chủ động cho Hội đồng, Ủy ban trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. 
+ Quy định cụ thể trách nhiệm giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật theo ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
+ Xác định thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội. 
+ Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, bảo đảm mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một cơ quan thực hiện và chịu trách nhiệm để không có sự chồng chéo; đối với những nhiệm vụ liên quan đến nhiều cơ quan thì phải có cơ chế chủ trì, phối hợp.  
+ Phân định rõ nhiệm vụ giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật theo ý kiến của đại biểu Quốc hội giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan chủ trì thẩm tra (Hội đồng, Ủy ban) và cơ quan trình dự án.  
+ Xác định phạm vi giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội theo hướng đây là các cơ quan chủ yếu thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội. 
+ Quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động thẩm tra, giám sát, báo cáo giải trình tại Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
+ Bổ sung quy định quyền của đại biểu Quốc hội tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội; có cơ chế để đại biểu Quốc hội có thể đăng ký tham dự các phiên họp của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội về các nội dung mà đại biểu quan tâm.
+ Quy định mang tính nguyên tắc, xác định phạm vi nhiệm vụ giữa Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan của Quốc hội: Trong việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện việc ấn định và tuyên bố ngày bầu cử, còn toàn bộ công tác chủ trì và tổ chức bầu cử sẽ do Hội đồng bầu cử quốc gia chịu trách nhiệm chính. Bên cạnh đó, Hội đồng bầu cử quốc gia cũng đảm nhiệm việc tổ chức các cuộc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội ở những khu vực bị khuyết đại biểu, tổ chức để cử tri trực tiếp thực hiện việc bỏ phiếu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, tổ chức để cử tri biểu quyết trong các cuộc trưng cầu ý dân. Hội đồng bầu cử có trách nhiệm bảo đảm để việc bầu cử diễn ra một cách dân chủ, công bằng và đúng pháp luật. Căn cứ vào kết quả bầu cử, Hội đồng bầu cử tuyên bố người trúng cử đại biểu Quốc hội. Người được bầu cử theo đúng trình tự luật định và được tuyên bố trúng cử đại biểu Quốc hội có đầy đủ tư cách đại biểu Quốc hội mà không cần thủ tục thẩm tra tư cách đại biểu như quy định của Luật hiện hành. 
- Về tổ chức của Quốc hội
Về cơ bản, tổ chức của Quốc hội tiếp tục giữ mô hình như hiện nay, song có cải tiến, kiện toàn để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan của Quốc hội. Theo đó:
+ Dự thảo Luật đã đề xuất việc sửa đổi tên gọi Ủy ban về các vấn đề xã hội thành Ủy ban xã hội, Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng thành Ủy ban văn hóa, giáo dục. Thành lập Ủy ban dân nguyện của Quốc hội (trên cơ sở nâng cấp Ban dân nguyện thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội hiện nay) với các nhiệm vụ, quyền hạn tương tự như Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Ủy ban dân nguyện có nhiệm vụ thẩm tra, giám sát, kiến nghị về các vấn đề thuộc lĩnh vực dân nguyện, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời, là đầu mối tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý, đôn đốc việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị gửi đến Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; tổng hợp, xử lý kết quả giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội. 
+ Bổ sung quy định xác định số lượng, cơ cấu thành viên Hội đồng, Ủy ban và tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng, Ủy ban trong Luật.  Cụ thể hóa quy định về việc Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định. Bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục đề nghị, phê chuẩn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, các ủy viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.   
+ Xác định tổng số đại biểu Quốc hội không quá 500 người. Quy định trong Luật tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách ít nhất là 35% tổng số đại biểu Quốc hội, về lâu dài, có thể phấn đấu lên 50%; quy định cụ thể cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, bảo đảm một đại biểu Quốc hội không phải “gánh” quá nhiều cơ cấu, có cơ chế thu hút những người đủ đức, đủ tài làm đại biểu Quốc hội.  Quy định rõ hơn địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội chuyên trách ở trung ương và địa phương.  Tiếp tục xác định Đoàn đại biểu Quốc hội là hình thức tổ chức hoạt động của các đại biểu Quốc hội tại địa phương; không hành chính hóa hoạt động của đại biểu; đồng thời làm rõ hơn địa vị pháp lý, tổ chức Đoàn và nhiệm vụ của Trưởng đoàn.  
+ Quy định Ban công tác đại biểu là cơ quan thuộc Quốc hội, có chức năng tham mưu, phục vụ các hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về công tác đại biểu dân cử, tổ chức cán bộ, nhân sự thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
+ Xác định Viện nghiên cứu lập pháp là tổ chức nghiên cứu khoa học thuộc Quốc hội (đơn vị sự nghiệp công lập) có chức năng nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Quốc hội; giúp Ủy ban thường vụ Quốc hội quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan thuộc Quốc hội; tư vấn hỗ trợ đại biểu Quốc hội thực hiện quyền sáng kiến pháp luật. 
+ Quy định Văn phòng Quốc hội là cơ quan thuộc Quốc hội, có chức năng tham mưu tổng hợp và tổ chức phục vụ hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội; hoạt động của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. 
+ Không tiếp tục duy trì Đoàn thư ký kỳ họp như hiện nay mà đề nghị lập chức danh Tổng thư ký Quốc hội để vừa đảm nhiệm việc chỉ đạo, tổ chức các hoạt động của Đoàn thư ký kỳ họp hiện nay, vừa là người đứng đầu Văn phòng Quốc hội. Theo đó, Tổng thư ký Quốc hội do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; có nhiệm vụ tổ chức tham mưu, phục vụ kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội, điều hành toàn bộ công tác phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. 
Uyên Minh
(Ban Nội chính Trung ương)
;
.