Một số đề xuất mới của Chính phủ trong dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới

Thứ Tư, 03/09/2014, 15:12 [GMT+7]
(BNCTW) - Ngày 20-8-2014, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội họp phiên toàn thể để xem xét, thẩm định dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới (dự Luật) do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền thay mặt Chính phủ trình.  
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội họp phiên toàn thể để xem xét, thẩm định dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội họp phiên toàn thể để xem xét, thẩm định dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới
So với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (năm 2008) và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân (năm 2004), Chính phủ đã đề xuất một số điểm mới trong dự thảo Luật như sau:
Một là, bổ sung khái niệm quy phạm pháp luật và chỉnh lý khái niệm văn bản quy phạm pháp luật để dự Luật rõ ràng, cụ thể và dễ áp dụng hơn: Xác định quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với mọi người trong phạm vi cả nước hoặc địa giới hành chính nhất định, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định trong Luật này ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện; văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này. Đồng thời dự Luật bổ sung quy định mang tính loại trừ là “Văn bản không chứa quy phạm pháp luật; văn bản có chứa quy phạm pháp luật, nhưng được ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật”.
Hai là, thu gọn các hình thức văn bản quy phạm pháp luật nhằm khắc phục sự cồng kềnh, phức tạp của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay, đồng thời bảo đảm cho hệ thống pháp luật đơn giản, dễ tiếp cận hơn: Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh của Chủ tịch nước, chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân đã không được dự Luật quy định là văn bản quy phạm pháp luật. Không quy định về nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị-xã hội, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Lý do là:
- Khoản 1, Điều 70 của Hiến pháp quy định Quốc hội làm luật và sửa đổi luật, không quy định Quốc hội ban hành nghị quyết; Khoản 2, Điều 74 của Hiến pháp quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao, không quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết. Đồng thời, khoản 1 Điều 88 của Hiến pháp quy định Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh mà không quy định việc công bố nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thực tế hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho thấy hình thức nghị quyết được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành chủ yếu để thực hiện chức năng giám sát tối cao, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Hiện nay, có một số nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội có chứa quy phạm (như Nghị quyết 49/2013/QH13 về kéo dài thời hạn sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối của hộ gia đình, cá nhân; Nghị quyết 29/2012/QH13 về ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho tổ chức và cá nhân; Nghị quyết 755/2005/NQ-UBNTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991…), tới đây, nên được ban hành bằng luật. Đối với các quy phạm pháp luật hiện nay được ban hành bằng nghị quyết, thời gian tới cũng cần được quy định ngay trong phần tổ chức thi hành của từng đạo luật nhằm bảo đảm các quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành sẽ được tiếp cận dễ dàng, làm tăng hiệu lực thực tế. 
- Theo Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nhằm công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh; công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh (căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội); ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ (căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội); công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp (căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội) v.v… Thực tế cho thấy, lệnh của Chủ tịch nước chủ yếu được sử dụng để công bố luật, pháp lệnh và chỉ có một lần duy nhất vào năm 1979, Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Lệnh tổng động viên. Việc soạn thảo lệnh của Chủ tịch nước rất đơn giản, không phải đánh giá tác động, đăng tải để lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra; không phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ; không cần phải được giám sát, hợp nhất, pháp điển như các văn bản quy phạm pháp luật thông thường. Mặc dù có tính bắt buộc thi hành, nhưng lệnh của Chủ tịch nước là văn bản để công bố hoặc bãi bỏ một tình trạng nào đó (chiến tranh, khẩn cấp), tổng động viên hoặc động viện cục bộ và phải căn cứ vào văn bản của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, không đưa ra quy tắc xử sự mới (quy phạm pháp luật) cho các đối tượng áp dụng.
- Việc không quy định Chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là văn bản quy phạm pháp luật cũng giống như lý do đối với nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh của Chủ tịch nước.   
- Việc không tiếp tục quy định hình thức nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội là văn bản quy phạm pháp luật là phù hợp với quy định của Hiến pháp về phân công rành mạch nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước, về chức năng của các tổ chức chính trị - xã hội là đại điện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân, của các thành viên, hội viên, thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Thay vào đó, dự thảo Luật tập trung vào hoàn thiện các quy định về sự tham gia, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đối với hoạt động xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật. 
- Việc Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số bộ thời gian qua phối hợp ban hành các thông tư liên tịch là cần thiết do pháp luật về tố tụng chưa hoàn thiện, nay các dự án luật, bộ luật trong lĩnh vực này đều đang được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể hơn. Do đó, sự cần thiết ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành sẽ được giảm thiểu. Hơn nữa, Hiến pháp năm 2013 (Điều 32) đặt ra yêu cầu phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân trong các hoạt động tố tụng “theo trình tự luật định” và “trong thời hạn luật định”. Để phù hợp với các nguyên tắc hiến định về thực hiện quyền tư pháp, cũng phải tập trung hoàn thiện, quy định chi tiết các luật về tố tụng như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Trong trường hợp thật cần thiết sau này, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn có thể đề nghị Quốc hội giao Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết các luật, bộ luật tố tụng mà không nên tiếp tục ban hành thông tư liên tịch. Điều này cũng phù hợp với dự thảo Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) (đã được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7), theo đó chỉ quy định thẩm quyền ban hành nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Việc tiếp tục duy trì hình thức thông tư liên tịch giữa các bộ, cơ quan ngang bộ cũng không còn phù hợp vì sẽ làm giảm thẩm quyền, cũng như trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực được phân công của từng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ đã được quy định tại Điều 99 của Hiến pháp. Thay vào đó, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành thông tư và kiểm tra việc thi hành các thông tư đó trong phạm vi cả nước theo đúng quy định của Hiến pháp (Điều 100). Đối với những vấn đề phát sinh liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều bộ, cơ quan ngang bộ, nếu có, thì các Bộ, cơ quan ngang bộ có thể đề nghị Chính phủ ban hành nghị định hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định để điều chỉnh.
Ba là, không quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã. Đối với cấp huyện, dự thảo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định chung về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện để quy định những vấn đề được giao trong Luật tổ chức chính quyền địa phương, đồng thời bổ sung quy định các văn bản quy phạm pháp luật này phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt. Lý do đưa ra là:
- Theo quy định của Hiến pháp thì Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, không phải là cơ quan quản lý nhà nước với chức năng ban hành chính sách, do vậy không ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng nghĩa của loại văn bản này. Khoản 10 Điều 70 và khoản 4 Điều 74 của Hiến pháp chỉ quy định về văn bản của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà không quy định về văn bản của người đứng đầu hai cơ quan này. Thực tiễn cũng cho thấy, từ năm 2009 đến nay, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chỉ ban hành 02 thông tư (Thông tư số 03/2009/TT-TANDTC hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân và Thông tư số 02/2009/TT-TANDTC về công tác thi đua khen thưởng năm 2009); Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không ban hành thông tư nào. 
- Theo quy định của Hiến pháp thì Kiểm toán nhà nước là cơ quan hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Như vậy, tương tự như Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước không phải cơ quan ban hành chính sách, do vậy cũng không ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng nghĩa của loại văn bản này.
- Việc không quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng kiểm toán nhà nước là phù hợp với nguyên tắc phân công thực hiện quyền lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Các chủ thể này, khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, vẫn có thể ban hành văn bản có chứa quy phạm để áp dụng trong nội bộ ngành, cơ quan, đơn vị mình, nhưng không phải là văn bản quy phạm pháp luật theo đúng nghĩa của nó và do đó cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh của  Luật này.
- Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật (nghị quyết, quyết định, chỉ thị) là do điều kiện hệ thống pháp luật của nước ta tại thời điểm đó chưa phát triển. Tuy nhiên, thực tế thowif gian qua cho thấy nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền cấp xã là không lớn; nếu có chủ yếu cũng là sao chép lại văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 112) thì Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân trước hết là cơ quan “tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương”. Hơn nữa, cả nước ta có tới hơn 11 nghìn xã, phường, thị trấn, nếu tiếp tục giữ thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ làm cho hệ thống pháp luật tiếp tục phức tạp, nhiều tầng nấc, khó kiểm soát từ phía các cơ quan trung ương, ảnh hưởng đến sự quản lý, điều hành thông suốt từ trung ương đến cơ sở trong một nhà nước đơn nhất.
Bốn là, tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trong đó tập trung quy định về quy trình xây dựng chính sách, theo hướng chính sách được thông qua, phê duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản; đổi mới quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật của một số chủ thể theo hướng đơn giản, linh hoạt hơn;  quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; quy định cụ thể các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ đại biểu Quốc hội thực hiện quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh và trình dự án luật, pháp lệnh; tăng cường dân chủ, phát huy trách nhiệm công dân, giám sát và phản biện xã hội trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
- Bỏ quy định về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ của Quốc hội, chỉ giữ lại Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hằng năm, được lập trên cơ sở mức độ chuẩn bị kỹ về chính sách pháp luật trong các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh do các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải tổ chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác động chính sách và các giải pháp chính sách trong dự án luật, pháp lệnh. Hội đồng tư vấn chính sách pháp luật của Chính phủ (Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ thành lập gồm Chủ tịch là một Phó Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch thường trực là Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Phó Chủ tịch là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ và thành viên là Lãnh đạo bộ, cơ quan ngang bộ và một số chuyên gia, nhà khoa học am hiểu sâu về các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và đối ngoại) chịu trách nhiệm thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các bộ, cơ quan ngang bộ (Điều 30) và chuẩn bị ý kiến của Chính phủ về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức không thuộc Chính phủ, của đại biểu Quốc hội (Điều 35)... 
- Đề nghị xây dựng nghị định (nghị định độc lập) phải được Hội đồng tư vấn chính sách pháp luật của Chính phủ thẩm định trước khi trình Chính phủ thông qua (Điều 80). Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị xây dựng nghị định chính là xem xét, thông qua từng chính sách trong nghị định. Trên cơ sở chính sách đã được Chính phủ thông qua, các cơ quan được giao chủ trì sẽ tiến hành soạn thảo dự thảo nghị định theo tiến độ do Chính phủ quyết định. Đối với nghị định quy định chi tiết luật, pháp lệnh, quyết định của Chủ tịch nước  thì không đặt ra quy trình xây dựng chính sách. 
- Việc tách giai đoạn xây dựng, thông qua chính sách đi trước giai đoạn soạn thảo chỉ được quy định đối với loại nghị quyết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo phân cấp của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, còn đối với nghị quyết để quy định cụ thể văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên thì dự thảo Luật chỉ yêu cầu cơ quan được phân công soạn thảo phải nêu rõ nội dung chính sách đã được quy định trong văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên với những giải pháp chính sách áp dụng trong điều kiện cụ thể của địa phương mình. 
Năm là, không bắt buộc thành lập Ban soạn thảo đối với các dự án luật, pháp lệnh, nghị định và không quy định việc thành lập Ban soạn thảo đối với văn bản của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh vì quy trình chính sách đi trước đã bảo đảm sự tham gia của các bộ, ngành liên quan cũng như sự kiểm soát lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng, thông qua chính sách. Theo đó, cơ quan thẩm định không đánh giá về sự cần thiết ban hành, tính khả thi của dự thảo luật, pháp lệnh do Chính phủ trình mà chủ yếu đánh giá về các khía cạnh pháp lý của dự thảo văn bản như tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên và ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo. Việc thông qua luật, pháp lệnh được thực hiện chủ yếu tại một kỳ họp của Quốc hội, một phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội; chỉ trong trường hợp còn nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình thảo luận thì Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội mới quyết định xem xét, thông qua tại kỳ họp, phiên họp tiếp theo... 
Sáu là, tăng cường dân chủ, phát huy trách nhiệm công dân trong xây dựng pháp luật theo hướng quy định một cách hợp lý hơn về việc lấy ý kiến và tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng pháp luật thực chất, hiệu quả hơn:
- Quy định lấy ý kiến là thủ tục bắt buộc trong cả giai đoạn đề nghị xây dựng chính sách và giai đoạn soạn thảo luật, pháp lệnh, nghị định, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; là thủ tục bắt buộc trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật khác; 
- Xác định rõ những người bắt buộc phải lấy ý kiến là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nội dung lấy kiến phải tập trung vào những chính sách lớn, quan trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến doanh nghiệp, người dân; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; quy định một địa chỉ cố định, dễ tiếp cận, dễ tra cứu để đăng tải những nội dung lấy ý kiến chính sách cùng toàn văn dự thảo trên Trang thông tin về xây dựng pháp luật của Chính phủ và Cổng thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến...
- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức lấy ý kiến trong việc phản hồi đối với các ý kiến góp ý, phản biện: “... đăng tải báo cáo tiếp thu, giải trình trên Trang thông tin về xây dựng pháp luật của Chính phủ”. 
- Bổ sung nhiều điều khoản quy định trực tiếp về sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp trong quá trình xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì tổ chức việc lấy ý kiến và phản biện xã hội đối với dự thảo luật, pháp lệnh có liên quan đến quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên; liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân; về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và Nhân dân giám sát việc xây dựng, ban hành và thi hành văn bản quy phạm pháp luật. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chủ trì tổ chức lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến doanh nghiệp (quy định này luật hóa khoản 4 Điều 27 của Nghị định số 24/2009/NĐ-CP). Cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi dự án luật, pháp lệnh đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên có liên quan và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để lấy ý kiến.
Bảy là, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo hướng:
- Các chủ thể trình dự án luật, pháp lệnh có trách nhiệm bảo vệ dự án luật, pháp lệnh do mình trình trong quá trình thẩm tra, thảo luận dự án luật, pháp lệnh; chịu trách nhiệm chủ trì phối hợp trong việc chỉnh lý, hoàn thiện đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, cũng như trong quá trình soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh. Quy định trách nhiệm của cơ quan trình dự án luật, pháp lệnh, cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh trong việc chủ trì, phối hợp chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh sau khi Ủy ban thường vụ Quốc hội và Quốc hội cho ý kiến, cũng như trong việc giải trình những vấn đề liên quan đến dự án luật, pháp lệnh mà đại biểu Quốc hội nêu tại kỳ họp của Quốc hội.
- Cơ quan chủ trì soạn thảo luật, pháp lệnh có trách nhiệm bảo đảm chất lượng dự thảo luật, pháp lệnh; phải trình dự án luật, pháp lệnh đúng thời hạn, có kèm theo dự kiến những định hướng nội dung và phạm vi vấn đề cần được giao quy định chi tiết trong dự thảo luật, pháp lệnh; kiến nghị phân công cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy định chi tiết các điều, khoản, điểm của dự thảo luật, pháp lệnh để Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến cùng với việc thông qua dự án luật, pháp lệnh, đảm bảo việc ủy quyền lập pháp được thực hiện đúng đắn.
- Cơ quan, người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm về việc chậm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, quyết định của Chủ tịch nước hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, luật, pháp lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định, quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 
Đào Tiềm
;
.