Mô hình tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam trong quá trình sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự

Thứ Tư, 06/11/2013, 15:33 [GMT+7]

Mô hình tố tụng hình sự theo cách hiểu chung nhất là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử).

Trên thế giới có 3 loại mô hình tố tụng hình sự: mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn; mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và mô hình tố tụng hình sự pha trộn.

1. Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng

Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là một trong các mô hình tố tụng hình sự phổ biến hiện nay trên thế giới; bảo đảm sự bình đẳng tuyệt đối giữa bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bào chữa trong suốt quá trình đi tìm sự thật vụ án. Đây là mô hình tạo ra nhiều cảm hứng cho quá trình cải cách, nâng cao chất lượng tố tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo đó, mô hình này có một quy trình tố tụng, đặc biệt trong giai đoạn xét xử thể hiện tính công bằng cao, thể hiện qua vai trò bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Ở giai đoạn tiền xét xử, công tố viên và luật sư có quyền điều tra, thu thập chứng cứ như nhau. Khi xét xử, chứng cứ của họ đều được đưa ra để thẩm tra trước tòa, đều có quyền lựa chọn nhân chứng để thẩm tra… Thông qua đối tụng giữa công tố viên và luật sư mà tòa án gồm đoàn bồi thẩm và thẩm phán chủ tọa phán quyết về sự thật khách quan và định hình phạt. Mô hình này cho phép luật sư có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng nên tòa án có thể thêm được một nguồn thông tin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án. Thay vì chỉ xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ hình sự thì đoàn bồi thẩm được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. Điều này bảo đảm cho mục đích tìm ra sự thật khách quan và chất lượng tranh tụng được nâng lên.

Trong mô hình tố tụng tranh tụng không tồn tại một “hồ sơ hình sự” theo nghĩa sử dụng trong mô hình tố tụng thẩm vấn. Bên buộc tội và bên bào chữa đều có quyền lập hồ sơ và khi ra phiên tòa xét xử, cả hai bộ hồ sơ đều không có giá trị chứng cứ vì chỉ có chứng cứ nào được trình bày và thẩm tra tại tòa bằng miệng mới được sử dụng để định tội.

Ngoài ra, với sự công bằng của quy trình tố tụng, mô hình tranh tụng thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân. Vai trò của luật sư giúp giảm đi sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Quyền được suy đoán vô tội của người dân được tôn trọng hơn so với mô hình tố tụng hình sự khác.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản, mô hình tố tụng tranh tụng còn có một số nhược điểm lớn. Đó là người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tòa và là người không chuyên nghiệp, đó chính là thành viên đoàn bồi thẩm. Trong khi thực tế cả bên công tố và bên bào chữa trong mô hình tranh tụng đều không có nghĩa vụ đi tìm sự thật khách quan. Trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, bên bào chữa là gỡ tội. Cả hai bên chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho việc thực hiện trách nhiệm của mình mà thôi. Điều này làm cho chứng cứ hay quan điểm riêng của một bên khi đưa ra tại phiên tòa không bao giờ phản ánh hoàn toàn sự thật của vụ án. Trong khi bồi thẩm đoàn là người dân không có kiến thức về pháp luật. Họ ra phán quyết về sự thật khách quan của vụ án chỉ thông qua việc nghe bên buộc tội và bên bào chữa xét hỏi nhân chứng và tranh luận theo quan điểm chủ quan của mình. Điều này hết sức rủi ro cho mục đích tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, việc quá đề cao sự đối tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng không phản ánh được hết tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn đến khả năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội. Ngoài ra, mô hình này cho thấy, năng lực của luật sư có vai trò quyết định tới phán quyết của đoàn bồi thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều người muốn thuê và gây nên bất công cho người nghèo vì không có điều kiện thuê luật sư giỏi, vốn lấy chi phí rất cao. Do đó, mặc dù bảo vệ quyền công dân rất tốt song mô hình này cũng dễ gây ra sự bất công cho người nghèo so với người giàu. Thời gian bình quân để tòa án kết thúc việc xét xử một vụ án có xu hướng dài hơn ở mô hình thẩm vấn. Vì người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên đối tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên tòa để thuyết phục đoàn bồi thẩm nghe theo lập luận của mình. Đồng thời, việc quy định một trình tự thủ tục chặt chẽ có thể khiến cho nhiều chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị loại bỏ vì vi phạm thủ tục, dẫn đến khó khăn cho việc đấu tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức với cách thức hoạt động tinh vi, phức tạp.

2. Mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn

Tố tụng theo mô hình này nghĩa là huy động các cơ quan tố tụng chuyên nghiệp của Nhà nước (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát/Viện công tố, Tòa án) vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, các cơ quan này cùng được giao trách nhiệm chứng minh tội phạm.

Về bản chất, tố tụng thẩm vấn đặt mục đích tìm kiếm sự thật là nhiệm vụ tối quan trọng. Trình tự giải quyết vụ án hình sự được xem như là một cuộc điều tra, trong đó, người tiến hành điều tra là đại diện của quyền lực Nhà nước và phương pháp điều tra là thẩm vấn. Tòa án giải quyết vụ án dựa trên hồ sơ vụ án kết hợp với việc tiếp tục thẩm vấn tại phiên tòa. Tòa án điều hành mọi tiến trình vụ án. Khi một vụ việc được đưa đến cho Tòa án, Tòa án sẽ nắm giữ trách nhiệm tìm kiếm sự thật cho riêng mình. Điều này ngược lại với mô hình tranh tụng, nơi mà bồi thẩm đoàn giao quyền chủ động cho công tố viên và luật sư tại phiên tòa và chỉ quyết định khi bị thuyết phục bởi lý lẽ, chứng cứ của một trong hai bên. Yếu tố công bằng chi phối mô hình tố tụng tranh tụng thì ở mô hình này bị gạt sang một bên trong việc tìm kiếm sự thật.

Khác với mô hình tố tụng tranh tụng, vai trò của cơ quan nhà nước trong việc tham gia tố tụng theo mô hình này là chủ yếu. Hiện diện trong suốt quá trình tố tụng là một hồ sơ vụ án hình sự thống nhất được lập từ giai đoạn điều tra và là nơi chứa đựng chứng cứ xác định tội phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án là những chủ thể đóng vai trò chính trong toàn bộ quá trình tố tụng và chi phối toàn bộ mô hình tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng là chủ thể xác định sự thật khách quan của vụ án, có toàn quyền trong việc xây dựng hồ sơ vụ án và coi đó là chứng cứ để xem xét định tội.

Thẩm phán đóng vai trò chủ động trong mô hình này. Kết quả của quá trình điều tra trước khi mở phiên tòa có ý nghĩa to lớn đối với phán quyết của thẩm phán. Chính vì thế, nhiệm vụ của thẩm phán tại phiên tòa là kiểm tra, thẩm định lại các chứng cứ đã được thu thập trước đó. Điều này lý giải tại sao việc xem xét và đánh giá tính có căn cứ và tính hợp pháp của chứng cứ được coi là đặc trưng của tố tụng thẩm vấn. Việc đặt nặng hoạt động điều tra ở giai đoạn tiền tố tụng trước khi mở phiên tòa đòi hỏi các bên gồm cảnh sát điều tra, đại diện Viện công tố và đặc biệt là thẩm phán phải tập trung vào việc chứng minh tội phạm, do đó các chức năng tố tụng không được phân định một cách rõ ràng, cụ thể mà chủ yếu tập trung vào Tòa án. Tòa án vừa chi phối, giám sát hoạt động điều tra trước phiên tòa, vừa thực hiện chức năng xét xử. Phiên tòa với bản chất của cuộc điều tra lại, điều tra tiếp được tiến hành bởi thẩm phán nên sự tham gia của Công tố viên và bên bào chữa trở nên hình thức, dẫn đến quyền bào chữa của người bị cáo bị hạn chế. So với công tố viên, vai trò của người bào chữa trong tố tụng thẩm vấn không được coi trọng. Công tố viên thường xuất hiện trong vụ kiện sớm hơn so với luật sư bào chữa.

Ưu điểm của mô hình này là Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc tìm kiếm sự thật, nên trong chừng mực nhất định, quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội luôn được bảo vệ tốt hơn khi quyền đó xâm phạm bởi cá nhân người phạm tội. Với cách thức thẩm tra truyền thống, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm.

Với bản chất không đặt nặng hình thức như tố tụng tranh tụng, tố tụng thẩm vấn coi sự thật sau cùng của vụ án là mục đích được mong chờ, do đó, những sai phạm không đáng kể trong thủ tục có thể được bỏ qua nếu mục đích chứng minh tội phạm vẫn được giải quyết. Thủ tục phiên tòa đơn giản, nhanh chóng. Việc xét xử không cần thiết phải có mặt đầy đủ những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa và gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận.

Tuy nhiên, với việc thẩm phán luôn chiếm ưu thế nổi trội hơn trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên giai đoạn xét xử tại phiên tòa chỉ đơn thuần là xác minh lại những gì đã được tìm thấy ở giai đoạn trước đó. Chứng cứ là do thẩm phán điều tra tập hợp nên việc thẩm vấn bị xem là đi ngược lại nguyên tắc vô tư, khách quan và việc tranh luận tại phiên tòa trở nên vô nghĩa. Mặt khác, quyền con người trong tố tụng thẩm vấn bị buộc tội bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù mục đích của tố tụng thẩm vấn là bảo vệ người bị buộc tội chống lại những cáo buộc thiếu cơ sở, xong những tiềm tàng do sự lạm dụng kéo dài của thủ tục tố tụng tiền xét xử là hiển nhiên. Trên thực tế, bị cáo có thể phải trải qua một thời gian bị giam giữ, thiếu thốn những điều kiện cần thiết cho việc bào chữa. Do đó, so với tố tụng tranh tụng, quyền bào chữa của người bị buộc tội ở tố tụng thẩm vấn thực chất chỉ là quyền mang tính hình thức, vai trò của người bào chữa bị coi nhẹ và quyền của người bị buộc tội không được bảo đảm. Điều này làm mất ý nghĩa của tố tụng hình sự, tạo tiền đề cho sự lạm dụng quyền lực nhà nước, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân.

3. Mô hình tố tụng hình sự pha trộn

Là mô hình tố tụng có sự đan xen, kết hợp của cả hai cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nêu trên.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp luật của các quốc gia có xu hướng giảm bớt những yếu tố đặc thù, “xích lại gần nhau” hơn và trong đó pháp luật tố tụng hình sự không phải là ngoại lệ. Nghiên cứu các mô hình tố tụng hình sự cho thấy, đến nay không tồn tại mô hình tố tụng hình sự thuần túy là thẩm vấn hay tranh tụng. Trong quá trình tồn tại, các mô hình tố tụng hình sự đã có sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tiến bộ, tích cực của nhau để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con người trong tố tụng hình sự.

Có thể thấy, Việt Nam hiện đang đi theo mô hình pha trộn thiên về thẩm vấn. Nhiệm vụ xác định sự thật khách quan, trách nhiệm chứng minh tội phạm được giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng đảm nhiệm. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ còn khá thụ động và trong nhiều trường hợp lệ thuộc vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều tra, thẩm vấn là phương pháp chủ yếu được áp dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng, thậm chí tại phiên tòa.

Tổng kết thực tiễn thi hành mô hình tố tụng hình sự ở nước ta thời gian qua cho thấy, mô hình tố tụng hình sự hiện hành đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, quá trình vận hành mô hình này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Việc tổ chức các hoạt động tố tụng hình sự đang có sự chồng lấn, mâu thuẫn giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Cùng một chủ thể nhưng lại được giao nhiều chức năng tố tụng khác nhau. Tòa án có vai trò quá chủ động, tích cực trong phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và đang được giao thực hiện một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử (khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung…). Vai trò của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm còn khá mờ nhạt, không tạo cơ sở phát huy tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của cơ quan buộc tội. Đặc biệt, vai trò của người bào chữa còn yếu ớt; chưa có những quy định để bảo vệ quyền của người bào chữa trong việc thực hiện quyền tố tụng. Việc thu thập chứng cứ, yếu tố quan trọng nhất liên quan đến việc định tội hoàn toàn do cơ quan nhà nước với những chức năng tố tụng khác nhau hình thành nên hồ sơ vụ án có xu hướng thiên về chứng cứ buộc tội mà thiếu chứng cứ gỡ tội, dẫn đến quyền suy đoán vô tội của bị cáo khó được tôn trọng một cách thực sự.

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định “đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Tham khảo kinh nghiêm về mô hình tố tụng với những ưu, nhược điểm nêu trên, cùng với một số đánh giá về thực trạng mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy, việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự là cần thiết nhưng phải được thực hiện trên cơ sở giữ nền tảng của mô hình tố tụng thẩm vấn hiện tại. Các yếu tố tranh tụng chỉ nên áp dụng ở mức độ giúp nâng cao chất lượng của quá trình tố tụng, tìm kiếm sự thật khách quan và bảo vệ tốt hơn quyền cơ bản của công dân. Theo đó, để tránh gây ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án cần đưa người bào chữa vào nhóm các cơ quan tiến hành tố tụng và đổi tên nhóm này thành “chủ thể tiến hành tố tụng”. Trong nhóm “chủ thể tiến hành tố tụng”, địa vị pháp lý người bào chữa cần được nâng lên “ngang bằng với kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là giai đoạn xét xử để tạo thành hai bên “đối tụng” cùng thu thập chứng cứ, xác định sự thật khách quan của vụ án”. Người bào chữa phải có quyền tiếp cận tới toàn bộ hồ sơ vụ án hình sự; được tham gia đầy đủ vào quá trình tố tụng ít nhất là từ khi kết thúc giai đoạn điều tra. Cả hai bên đều có trách nhiệm chia sẻ toàn bộ chứng cứ mà mình đã thu thập được. Thẩm phán chỉ được căn cứ vào những chứng cứ được xác định tại phiên tòa xét xử để xác định bị cáo có tội hay không có tội. Nếu chứng cứ trình bày tại phiên tòa xét xử chưa đủ để định tội thì tòa án phải tuyên bị cáo không có tội; hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đây là cơ chế mà rất nhiều mô hình tố tụng học hỏi từ mô hình tranh tụng, thể hiện sự tôn trọng các cam kết quốc tế về bảo vệ quyền con người mà Việt Nam tham gia cũng như quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định.

Nguyễn Thảo
(Ban Nội chính Trung ương)

;
.