Một số vướng mắc, bất cập trong Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002

Thứ Hai, 04/11/2013, 11:26 [GMT+7]

Luật tổ chức tòa án nhân dân được Quốc hội khóa X, Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 02-4-2002 thay thế Luật tổ chức tòa án nhân dân ngày 06-10-1992 (đã được sửa đổi, bổ sung theo các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức tòa án nhân dân ngày 28-12-1993 và ngày 28-10-1995). Sau hơn 10 năm thi hành trên thực tế, Luật tổ chức tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao chất lượng hoạt động của các Tòa án; tác động tích cực đối với sự phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân.

1. Kết quả thi hành Luật tổ chức tòa án nhân dân

Cùng với quá trình đẩy mạnh cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Tòa án ngày càng có vị trí trung tâm, xét xử là hoạt động trọng tâm; được quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi hơn để tổ chức thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Hoạt động của các Tòa án đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và cá nhân nói chung, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội…

Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Đến nay, hệ thống Tòa án có 700 Tòa án nhân dân cấp huyện, 63 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao với số lượng cán bộ, công chức khoảng 13.600 người, tăng khoảng 5.100 người so với năm 2001, trong đó số lượng Thẩm phán Tòa án các cấp tăng khoảng 1.500 người. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chức danh tư pháp đều đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn đối với các chức danh này. Đa số Tòa án đều kiện toàn đủ bộ máy đơn vị chuyên môn và các đơn vị hoặc bộ phận giúp việc theo quy định. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa án các cấp ngày càng được cải thiện, việc ứng dụng công nghệ thông tin trên một số mặt công tác của Tòa án đang được coi trọng và triển khai tích cực.

Số lượng các vụ án Tòa án các cấp thụ lý, xét xử tăng từ 180.000 vụ (năm 2001) lên 332.000 vụ (năm 2012), tức là tăng khoảng 15.000 vụ mỗi năm. Hàng năm, tỷ lệ giải quyết các vụ án đều đạt khoảng 98% trên tổng số vụ án thụ lý. Đặc biệt việc tồn đọng án ở các Tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đã được khắc phục triệt để, các Tòa án địa phương cũng giảm mạnh số vụ án để quá thời hạn xét xử như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong 3 năm gần đây, không có trường hợp nào kết án oan người không có tội; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa nghiêm trọng do lỗi của các Hội đồng xét xử đều giảm dần qua từng năm.

2. Một số hạn chế, vướng mắc

Thực tế hơn 10 năm thi hành Luật tổ chức tòa án nhân dân cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tồn tại những hạn chế, vướng mắc. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của Tòa án: Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật tổ chức tòa án nhân dân, Tòa án mới chỉ được ghi nhận là cơ quan xét xử; chưa được quy định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp với chức năng đầy đủ bao gồm xét xử và giải thích pháp luật; do đó, chưa bảo đảm được vị trí, vai trò của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, do chưa được nhìn nhận một cách chính xác về chức năng, nhiệm vụ cũng như các nguyên tắc về tổ chức hoạt động tư pháp nên các Tòa án đang được tổ chức như các cơ quan hành chính nhà nước.

Thứ hai, về cơ cấu tổ chức Tòa án nhân dân các cấp:

- Đối với Tòa án nhân dân cấp huyện: Theo quy định hiện hành, Tòa án nhân dân cấp huyện được tổ chức theo đơn vị hành chính cấp huyện; có thẩm quyền giải quyết xét xử theo thủ tục sơ thẩm trên 80% các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của ngành Tòa án nhân dân. Việc thành lập Tòa án nhân dân cấp huyện không căn cứ vào đặc điểm dân số, địa lý, mức độ phát triển kinh tế - xã hội, số lượng tội phạm, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại,… tại các địa phương khiến cho số lượng các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay rất lớn, có xu hướng tăng lên và tổ chức dàn trải do nhu cầu thành lập mới các đơn vị hành chính cấp huyện; gây khó khăn, thách thức lớn trong việc đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường nguồn nhân lực cho Tòa án nhân dân cấp huyện; dẫn đến tình trạng có nơi quá nhiều việc, có nơi lại quá ít việc.

Mặt khác, cơ cấu bộ máy của Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay còn đơn giản, không được tổ chức theo lĩnh vực xét xử, nên khó khăn trong việc đầu tư, đào tạo chuyên ngành cho các thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án, cán bộ, công chức Tòa án nhân dân cấp huyện, ảnh hưởng đến chất lượng công tác của Tòa án, đặc biệt là công tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc đòi hỏi chuyên môn sâu và những kỹ năng nghiệp vụ đặc thù như các vụ việc về đất đai, sở hữu trí tuệ, kinh doanh thương mại, các vụ việc có liên quan đến gia đình và người chưa thành niên.

Bên cạnh đó, trong nhận thức của các ngành, các cấp, Tòa án nhân dân cấp huyện được coi như một đơn vị chức năng thuộc đơn vị hành chính cấp huyện, gây khó khăn cho việc xử lý, giải quyết các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tòa án, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án, nhất là trong việc giải quyết các vụ án hành chính, khi một bên trong vụ án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.

- Đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh: Theo quy định hiện hành, Tòa án nhân dân cấp tỉnh gồm 5 tòa chuyên trách (Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động và Tòa hành chính); tuy nhiên, số lượng các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải giải quyết là rất lớn so với số lượng các vụ án lao động, hành chính, kinh doanh thương mại. Có Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong năm không thụ lý vụ án lao động nào nhưng vẫn có Tòa lao động. Tồn tại, bất cập này thể hiện sự cồng kềnh và chưa hợp lý trong cơ cấu bộ máy của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

- Đối với Tòa án nhân dân tối cao: Cho đến nay, chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử của Tòa án nhân dân tối cao; do đó, công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử thời gian qua còn chưa thực sự đi vào nề nếp, chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn công tác xét xử. Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của Tòa án nhân dân tối cao thường chậm, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn. Việc quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải mở phiên họp toàn thể để thực hiện các nhiệm vụ quy định tại Điều 22 của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 dẫn đến tình trạng quá tải trong công tác của Hội đồng Thẩm phán, là một trong những nguyên nhân khiến cho việc giám đốc thẩm, tái thẩm quá thời hạn xét xử hoặc chậm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Ngoài ra, theo cơ cấu tổ chức hiện nay thì các đơn vị giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao đều là cấp vụ; do đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao vẫn phải chính danh ký những quyết định lẽ ra là thuộc thẩm quyền của cấp giúp việc như: quyết định biên chế, tuyển dụng, quyết định tập sự cho công chức, viên chức mới… Với thực tế đó, cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chưa tương xứng với vị trí, vai trò là cơ quan cao nhất của hệ thống cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp - một trong ba quyền lực cơ bản của Nhà nước.

- Đối với Tòa án quân sự các cấp: Với số lượng các vụ việc không quá nhiều và phân bố không đều giữa các khu vực, cũng cần sắp xếp, cơ cấu lại các Tòa án quân sự quân khu và tương đương, các Tòa án quân sự khu vực để tránh lãng phí về nguồn lực.

Thứ ba, về phân định thẩm quyền và nhiệm vụ của Tòa án các cấp: Theo quy định hiện hành thì thẩm quyền xét xử của mỗi Tòa án được xác định vừa theo lãnh thổ vừa theo tính chất các vụ việc và thủ tục giải quyết, xét xử các vụ án; trong đó Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, còn lại các Tòa án cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp, vừa phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm (Tòa án nhân dân tối cao), hoặc vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, vừa giám đốc thẩm, tái thẩm (Tòa án cấp tỉnh). Điều này là không thể hiện đúng, chính xác tính chất hoạt động, vai trò, vị trí của Tòa án mỗi cấp quy định trong hệ thống Tòa án.

Bên cạnh đó, việc có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm (gồm 63 Tòa án cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) khiến cho mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm bị ảnh hưởng.    

Thứ tư, về chế định thẩm phán: Quy định về tiêu chuẩn để bổ nhiệm thẩm phán quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 là “có năng lực làm công tác xét xử” còn chung chung, định tính và chưa hợp lý. Quy định tiêu chuẩn về thời gian công tác trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (người có thời gian công tác pháp luật từ 4 năm trở lên có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán sơ cấp; 10 năm trở lên có thể được bổ nhiệm thẩm phán trung cấp; 15 năm trở lên có thể được bổ nhiệm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) còn mang tính tình thế, thực tiễn áp dụng không thống nhất và chưa phù hợp, nhất là trong bối cảnh thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức, yêu cầu nâng cao chất lượng thẩm phán. Quy định người có thâm niên công tác như nhau, có trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị như nhau thì người được bổ nhiệm làm thẩm phán công tác ở Tòa án cấp huyện hoặc cấp tỉnh sẽ có những thiệt thòi về chính sách, chế độ so với người được bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại thẩm phán còn rườm rà; phải có ý kiến của nhiều cơ quan, đơn vị liên quan, trong khi hướng dẫn về các vấn đề cụ thể có lúc lại chưa kịp thời, rõ ràng dẫn đến việc bổ nhiệm còn chậm trễ. Hơn nữa, việc tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán chưa được công bố công khai và không qua thi tuyển là một trong những nguyên nhân chưa bảo đảm yêu cầu về việc tuyển chọn được những người có tài, có phẩm chất chính trị tốt để bổ nhiệm làm thẩm phán.

Nhiệm kỳ của thẩm phán theo quy định hiện hành (5 năm) là ngắn và chưa phù hợp, tạo tâm lý không yên tâm làm việc của thẩm phán, nhiều trường hợp còn có tâm lý e ngại trước những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét, tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm; nhất là khi đến gần thời điểm tiến hành bổ nhiệm lại. Đây là một trong những nguyên nhân làm nguyên tắc “độc lập” của thẩm phán khi xét xử bị ảnh hưởng.

Thứ năm, về chế định Hội thẩm: Một trong những hạn chế, bất cập hiện nay là sự chênh lệch về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giữa thẩm phán và Hội thẩm ngày càng rõ rệt. Trong lúc pháp luật đòi hỏi thẩm phán phải có tiêu chuẩn cao về chuyên môn, nghiệp vụ; trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân đã được nâng cao hơn so với trước đây thì tiêu chuẩn của Hội thẩm hầu như không có gì thay đổi qua nhiều năm; còn rất chung chung, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Mặt khác, Hội thẩm không phải là công chức Tòa án. Khi được bầu làm Hội thẩm thì họ vẫn là cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức, đơn vị đang công tác hoặc cán bộ nghỉ hưu. Khi được phân công xét xử thì họ mới đến Tòa án để nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa. Các chế độ hiện nay đối với Hội thẩm còn thấp, chỉ có chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử. Khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán, trong khi thẩm phán có chế độ phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nhưng Hội thẩm lại không được hưởng các chế độ phụ cấp này.

Thứ sáu, về bảo đảm hoạt động của Tòa án: Cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động của các Tòa án hiện nay còn thiếu thốn, bất cập, nhất là ở cấp huyện chưa đáp ứng được yêu cầu công tác xét xử trong điều kiện cải cách tư pháp. Thậm chí có đơn vị vẫn chưa được cấp đất để xây dựng trụ sở mà phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử (hiện nay, có 26 đơn vị cấp huyện chưa có trụ sở phải thuê nơi làm việc và phòng xét xử; có đơn vị chưa có trụ sở 10  năm nay; có đơn vị được cấp đất nhưng chưa được đầu tư xây dựng). Trong khi đó, quy định “kinh phí hoạt động của ngành Tòa án do Tòa án nhân dân tối cao lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định” (Điều 46 của Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002) đã ảnh hưởng đến tính chủ động của Tòa án nhân dân tối cao trong việc xây dựng dự toán và báo cáo Quốc hội xem xét tăng cường kinh phí hoạt động cho ngành Tòa án.

Chế độ tiền lương của cán bộ, công chức ngành Tòa án còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt chung và chưa có chính sách đãi ngộ đặc thù nên chưa thực sự động viên, khuyến khích được đội ngũ cán bộ, công chức tận tâm, cống hiến và gắn bó lâu dài với ngành, đồng thời chưa có tác dụng thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào công tác trong ngành Tòa án, đặc biệt là những Tòa án ở các địa phương vùng sâu, vùng xa.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Một là, về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của Tòa án: Để bảo đảm Tòa án có vị trí trung tâm trong bối cảnh cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Tòa án cần được ghi nhận là cơ quan thực hiện quyền tư pháp với chức năng đầy đủ bao gồm xét xử và giải thích pháp luật.

Hai là, về cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp: Theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, hệ thống Tòa án của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và các Tòa án quân sự.

Khi hệ thống Tòa án được tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp thì Tòa án nhân dân tối cao sẽ không còn thẩm quyền xét xử phúc thẩm; vì vậy sẽ không còn các Tòa phúc thẩm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao sẽ tập trung nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, giải thích pháp luật và phát triển án lệ; giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp, Tòa án đặc biệt và các Tòa án khác; trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội các dự án luật, pháp lệnh theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp cao có nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân cấp dưới theo quy định của pháp luật tố tụng; phúc thẩm các bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bị kháng cáo, kháng nghị; xét xử sơ thẩm một số loại vụ án không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực. Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực thành lập ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện trong cùng một đơn vị hành chính cấp tỉnh, có thẩm quyền xem xét sơ thẩm nhưng vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng và giải quyết những việc khác theo luật định.

Ba là, về chế định thẩm phán: Quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán cần cụ thể, rõ ràng. Tiêu chuẩn chung là sự chính trực, có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm công tác.

Đổi mới quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán theo hướng mở rộng đối tượng tham gia tuyển chọn thẩm phán, kể cả ứng viên là người ngoài ngành Tòa án. Trong đó, chú ý tới đội ngũ luật sư theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW. Nghiên cứu từng bước chuyển từ chế độ xét tuyển thẩm phán ở từng cấp tòa án hiện hành sang chế độ thi tuyển cấp quốc gia. Quy trình tuyển chọn thẩm phán cần được nghiên cứu để giảm bớt những áp lực cho thẩm phán trong quá trình tuyển chọn. Trước hết, cần rút ngắn thời gian xem xét hồ sơ của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán tại địa phương và của Tòa án nhân dân tối cao hoặc tái bổ nhiệm của Tòa án nhân dân tối cao. Chế định về Hội đồng tuyển chọn thẩm phán cần phải được đổi mới phù hợp với nhu cầu tuyển chọn, không nên mang tính hình thức, tạo áp lực đối với thẩm phán như hiện nay. Cần sửa đổi cơ chế bổ nhiệm theo hướng những người trúng tuyển kỳ thi quốc gia nếu có đủ các tiêu chuẩn khác mà pháp luật quy định sẽ được Chủ tịch nước xem xét và ra quyết định bổ nhiệm làm thẩm phán. Thẩm phán sẽ là thẩm phán của quốc gia, nên có thể điều động họ dễ dàng khi thấy cần thiết. Riêng đối với thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (theo phương án đổi mới hệ thống Tòa án thì sẽ có rất ít thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) thì việc bổ nhiệm sẽ cần phải được Quốc hội phê chuẩn.

Tăng nhiệm kỳ của thẩm phán theo hướng chênh lệch so với nhiệm kỳ của những người tham gia quá trình tuyển chọn và tái bổ nhiệm thẩm phán. Nhiệm kỳ đề xuất có thể là 10 năm. Đồng thời, chỉ nên có một chế độ kỷ luật bao gồm các hình thức kỷ luật nghề nghiệp đối với thẩm phán. Nghiên cứu loại bỏ cơ chế coi việc hủy, sửa bản án là một trong những tiêu chí để xem xét kỷ luật thẩm phán. Nhất thiết cần phải có một bộ quy tắc đạo đức thẩm phán, trong đó, quy định cụ thể các trường hợp nào sẽ bị kỷ luật hình thức nào. Việc kỷ luật phải được thực hiện bởi một cơ quan độc lập bao gồm có cả các đại diện của giới thẩm phán. Chỉ quy định một hội đồng xem xét kỷ luật thẩm phán ở cấp Trung ương có thẩm quyền xem xét kỷ luật thẩm phán tất cả các cấp. Phải có quy trình và thủ tục khiếu nại công khai, minh bạch dành cho thẩm phán đối với các quyết định kỷ luật. Thẩm phán phải có cơ hội và giải trình trước cơ quan xem xét kỷ luật mình và được quyền khiếu kiện lên tòa án cấp trên hoặc Tòa án nhân dân tối cao.

Bốn là, về chế định Hội thẩm: Quy định hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương có trách nhiệm quản lý Hội thẩm theo quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Hội thẩm được bồi dưỡng nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Tòa án, được hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật…

Năm là, về bảo đảm hoạt động của Tòa án: Tòa án cần có quyền quyết định trong việc xác định nhu cầu ngân sách hoạt động và có vai trò nhất định trong việc giải ngân khoản ngân sách đã được phê duyệt. Tiêu chí phê duyệt và phân bổ ngân sách cho hoạt động xét xử cần phải được nghiên cứu và quy định khác so với các tiêu chí chung về phân bổ ngân sách hiện nay (tính trên đầu biên chế). Trao quyền cho Tòa án nhân dân tối cao tổng hợp, xem xét và lập ngân sách cho toàn ngành Tòa án để trực tiếp trình Quốc hội phê duyệt. Chính phủ sẽ thực hiện chức năng phản biện về dự toán ngân sách mà Tòa án nhân dân tối cao lập và trình Quốc hội. Quốc hội sẽ quyết định phê duyệt phân bổ cho ngân sách tòa án từng địa phương. Tòa án nhân dân tối cao cấp ngân sách cho từng toà án địa phương trên cơ sở phê duyệt của Quốc hội và chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, giám sát các tòa án địa phương giải ngân đúng quy định của pháp luật.

Đổi mới chế độ lương đối với thẩm phán theo hướng mức lương của thẩm phán không thể bị cắt giảm và phải được điều chỉnh tăng phù hợp với tốc độ lạm phát trong từng thời kỳ. Ban hành quy định riêng về thang bảng lương cho các ngạch thẩm phán khác với thang bảng lương của công chức hành chính; đồng thời có tính đến yếu tố chất lượng công việc để khắc phục những bất hợp lý của cơ chế hiện nay. Mức lương thẩm phán (khi đã được tính cả các phụ cấp và chế độ khác) cần bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình ở mức khá so với mặt bằng chung của xã hội.

Nguyễn Thảo

(Ban Nội chính Trung ương)

;
.