Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay

Thứ Năm, 04/10/2012, 10:57 [GMT+7]

Nhận thức đầy đủ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng, trải qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí là đòi hỏi bức xúc của xã hội, là quyết tâm chính trị của Đảng ta, nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ”. Đại hội đã đề ra những định hướng và chủ trương lớn cho công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó xác định: “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”

Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương,

giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng

Tiếp theo, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba (khóa X) đã ban hành riêng một Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trong đó xác định: “phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục”, nhằm: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí”.

Đại hội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2011-2015) Đảng ta khẳng định: Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công. Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định. Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu khi để cơ quan, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng, tịch thu sung công tài sản tham nhũng và có nguồn gốc tham nhũng; có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tổng kết, đánh giá cơ chế, mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp[1].

Tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị, quan điểm, đường lối phòng, chống tham nhũng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) xác định: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ... Kiện toàn và tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm”.

Kết quả nghiên cứu thực trạng tham nhũng cho thấy, trong những năm qua tình hình tội phạm tham nhũng xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực của đối sống xã hội; tính chất, mức độ nghiêm trọng, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực kinh tế trọng điểm và một số cơ quan hành chính, sự nghiệp. Nhiều vụ án tham nhũng được phát hiện, điều tra, xử lý có quy mô lớn thể hiện ở đối tượng phạm tội, lượng tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát cho Nhà nước, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, gây bất bình trong xã hội. Trong các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý đã xuất hiện xu hướng liên kết, hình thành tổ chức phạm tội trong các khu vực, lĩnh vực kinh tế, tội phạm tham nhũng có yếu tố nước ngoài với tính chất ngày càng tinh vi, phức tạp, có sự móc nối, câu kết của nhiều loại đối tượng, với nhiều phương thức, thủ đoạn thực hiện và che giấu hành vi phạm tội.

Thống kê kết quả điều tra, truy tố, xét xử án tham nhũng trong cả nước 5 năm qua (2007 - 2011) cho thấy đã khởi tố: 1.409 vụ/2.999 bị can; truy tố 1.562 vụ/3.382 bị can; xét xử 1.418 vụ/3.317 bị cáo[2]. Nhìn chung, trong 5 năm qua, công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hành vi tham nhũng có nhiều tiến bộ. Sự chỉ đạo và sự phối hợp giữa các cơ quan Kiểm tra, Thanh tra, Kiểm toán, Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án đã có sự chủ động, thường xuyên, chặt chẽ hơn. Số vụ án tham nhũng được điều tra, truy tố, xét xử với số lượng lớn, bình quân mỗi năm khởi tố 282 vụ/600 bị can. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Một số vụ việc, vụ án tham nhũng tồn đọng từ nhiều năm trước đây nay được khởi tố, điều tra, xử lý dứt điểm, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Qua đó tạo sự răn đe, góp phần ngăn chặn hành vi tham nhũng, bảo đảm duy trì trật tự, kỷ cương xã hội. Thông qua việc xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng đã giúp các cấp, các ngành phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế - xã hội, từ đó bổ sung cơ chế, chính sách, khắc phục những tồn tại, yếu kém, đưa ra các giải pháp phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng phù hợp hơn.

Nhìn chung, sau hơn năm năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) và Luật phòng, chống tham nhũng cho thấy, hầu hết các cấp uỷ, chính quyền đã nghiêm túc triển khai thực hiện. Với sự cố gắng của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đã tạo những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động trong phòng, chống tham nhũng. Công tác phòng, chống tham nhũng đã đạt được những kết quả bước đầu, nhất là trong xây dựng thể chế và công tác phòng ngừa. Trong một số lĩnh vực, tham nhũng từng bước được kiềm chế.

Tuy nhiên, nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá, công tác PCTN trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, đó là:

Giữa quyết tâm chính trị và hành động thực tiễn còn khoảng cách đáng kể. Việc vận dụng một số chủ trương, chính sách và áp dụng các quy định pháp luật về PCTN chưa sát với tình hình thực hiện tiễn, thiếu sáng tạo. Một số cơ chế, chính sách, quy định chậm được bổ sung, sửa đổi, dẫn đến lúng túng, hiệu quả thấp trong tổ chức thực hiện. Tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong PCTN còn yếu. Việc tự phát hiện hành vi tham nhũng ngay trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị còn rất hạn chế. Cũng có ý kiến đánh giá số vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện và xử lý còn thấp, chưa tương xứng với tình hình. Một số vụ việc, vụ án tham nhũng xử lý chậm, kéo dài, sự phối hợp chưa đồng bộ, thiếu nhất quán giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, việc thông tin chưa đầy đủ, kịp thời đã gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân. Tình trạng sách nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức chậm được khắc phục, gây bức xúc trong xã hội. Tổ chức, hoạt động của các cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN có mặt chưa hợp lý, hiệu quả còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, quyết tâm, công tác PCTN đã có chuyển biến theo hướng tích cực nhưng chưa tạo được sự chuyển biến có tính cơ bản, tình hình tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn ở mức nghiêm trọng, diễn biến phức tạp; xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức, lối sống; hình thức, thủ đoạn tham nhũng ngày càng tinh vi, gây bức xúc xã hội. Do vậy, việc phòng, chống có hiệu quả nạn tham nhũng là đòi hỏi cấp thiết. Đây là vấn đề khó khăn, phức tạp; là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên trì, kiên quyết, liên tục, đúng pháp luật với sự vào cuộc của cả Hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là do quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước chưa trở thành hành động tự giác của nhiều ngành, nhiều cấp. Không ít cấp ủy đảng, chính quyền và người đứng đầu thiếu quyết tâm và chưa quan tâm đúng mức đấu tranh chống tham nhũng. Năng lực và sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn mờ nhạt, yếu kém.

Hệ thống cơ chế, chính sách phục vụ công tác PCTN còn thiếu đồng bộ, trên một số lĩnh vực còn sơ hở, chưa theo kịp sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử tham nhũng còn bất cập. Nhiều nơi việc thực hiện, chấp hành các quy định về phòng ngừa tham nhũng không nghiêm, còn mang tính chiếu lệ, hình thức. Sự tham gia, giám sát của các cơ quan dân cử, vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn thể và của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ.   

Từ những kết quả bước đầu cũng như những hạn chế, yếu kém trong công tác PCTN nêu trên, trong những năm tới chúng ta cần phải tạo một sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt hơn, khắc phục những hạn chế, yếu kém để có thể ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng; loại bỏ dần các cơ hội và điều kiện phát sinh tham nhũng; tổ chức thực hiện nghiêm, có hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về PCTN; xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật mọi hành vi tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức liêm chính; củng cố lòng tin của nhân dân, thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Trước mắt cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau đây:

1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá X) "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí" theo Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5, khoá XI.  Huy động sự tham gia đồng bộ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, tạo sức mạnh tổng hợp đấu tranh phòng, chống tham nhũng; gắn chặt công tác phòng, chống tham nhũng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Mở rộng dân chủ, tạo đồng thuận cao trong nhận thức và quyết tâm. Hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước bằng quyết tâm và hành động thiết thực; rút ngắn khoảng cách giữa nhận thức và trong hành động cụ thể phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, truyền thông về công tác phòng, chống tham nhũng. Các cấp uỷ đảng, chính quyền cần dành sự quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức trong toàn xã hội về tác hại của tệ tham nhũng và để từng cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức xác định rõ hơn trách nhiệm của mình trong phòng, chống tham nhũng. Gắn chặt chẽ công tác tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tham nhũng với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có chính sách truyền thông đúng đắn, một mặt lên án mạnh mẽ hình vi tham nhũng đi đôi với việc biểu dương, nhân rộng những tấm gương điển hình, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; tạo và định hướng dư luận tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

3. Tiếp tục khẩn trương bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội; đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên quyết loại bỏ những cản trở về thể chế và thủ tục hành chính tạo điều kiện cho sách nhiễu, tham nhũng. Thực hiện mạnh mẽ sự phân cấp trong hệ thống hành chính đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, trách nhiệm giải trình trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Nhanh chóng xây dựng quy định cụ thể để xử lý được ngay việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, tạm đình chỉ chức vụ của người có dấu hiệu tham nhũng và xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

Kiên quyết, khẩn trương hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó chú trọng hoàn thiện các chế định về thực hiện nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với đất đai, tài nguyên khoáng sản; chế định quản lý doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước; chế định quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản của Nhà nước trong doanh nghiệp.

Rà soát các quy định hiện hành, khắc phục những sơ hở, thiếu sót, trước hết là trong những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như: Quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách, thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác tổ chức, cán bộ; quan hệ giữa cơ quan nhà nước với người dân và doanh nghiệp. Sớm hoàn thiện để đưa vào thực hiện Đề án kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn để kiểm soát và phòng ngừa tham nhũng.

Từng bước thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp, phấn đấu để cán bộ, công chức, viên chức chủ yếu sống bằng lương và có mức thu nhập tương đương mức thu nhập khá trong xã hội. Có chế độ đãi ngộ tương xứng, đi kèm trách nhiệm rõ ràng đối với cán bộ, công chức trong các cơ quan, đơn vị chuyên trách phòng, chống tham nhũng.   

4. Tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát, điều tra, truy tố xét xử trong phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng. Trước mắt cần tập trung hơn nữa công tác phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng để đủ sức răn đe, phòngngừa tham nhũng.

Khẩn trương hoàn thiện các quy định về giám định tư pháp, nhất là giám định tài chính, giám định chất lượng công trình đầu tư xây dựng ... phục vụ kịp thời, có hiệu quả việc xử lý tham nhũng. Nghiên cứu thực hiện biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng đối phó của đối tượng có dấu hiệu tham nhũng khi bị thanh tra, kiểm tra, gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan chức năng (như điều chuyển khỏi vị trí công tác, cách ly hợp pháp ...). Có quy định nhằm hạn chế tối đa việc cho bị can được tại ngoại trong quá trình điều tra về hành vi tham nhũng và việc áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với đối tượng phạm tội tham nhũng.

Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng theo Kế hoạch số 08-KH/TW ngày 12/3/2012 của Bộ Chính trị. Xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi tham nhũng trong các cơ quan, đơn vị phòng, chống tham nhũng và những người bao che cho tham nhũng, ngăn cản việc chống tham nhũng.

5. Phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Huy động sức mạnh quần chúng nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và các cơ quan, tổ chức, đơn vị để phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng.

Xây dựng cơ chế giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức quần chúng đối với việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách; giám sát sinh hoạt, phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, vai trò của các cơ quan thông tin, báo chí cùng toàn xã hội trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

6. Đẩy mạnh và tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Chủ động hội nhập quốc tế trên lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Tăng cường tương trợ tư pháp, nhất là tư pháp hình sự để xử lý hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài và thu hồi tài sản tham nhũng. Triển khai nghiêm túc Kế hoạch thực hiện Công ước và Quy chế phối thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Tổ chức nghiên cứu, học tập, trao đổi để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tham nhũng. Tăng cường đối thoại để bạn bè quốc tế thấy rõ quyết tâm phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta.

Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải tiến hành căn cơ với những bước đi vững chắc. Các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội cần đồng thuận, quyết tâm cao và tích cực trong hành động. Từ những kết quả đã đạt được và những kinh nghiệm rút ra trong 5 năm qua, chúng ta tin tưởng rằng, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, sự nỗ lực của các cấp, các ngành và sự tham gia chủ động, tích cực của toàn xã hội, nhất định chúng ta sẽ từng bước đẩy lùi tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức liêm chính; củng cố niềm tin của nhân dân và cộng đồng quốc tế, bảo đảm vững chắc cho ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Phạm Anh Tuấn

Phó Chánh Văn phòng Thường trực

Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN




[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2011, trang 252, 253, 254.

[2] Theo Phụ lục Báo cáo tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X (số 07/BC-BCĐ ngày 09/12/2010) của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Báo cáo số 153/BC-CP ngày 07/9/2011 của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2011.

;
.