Phòng, chống tham nhũng khu vực ngoài nước trong dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)

Thứ Tư, 28/09/2016, 15:31 [GMT+7]
    1. Yêu cầu thực tiễn đặt ra trong việc thúc đẩy PCTN ở khu vực ngoài nhà nước 
 
    Theo Báo cáo nghiên cứu về hiện trạng tham nhũng trong khu vực doanh nghiệp (được thực hiện bởi Trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển - DEPOCEN năm 2011), tham nhũng trong doanh nghiệp xảy ra trên nhiều lĩnh vực, điển hình như:
 
    - Trong quan hệ với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện nước, cơ sở hạ tầng: Đã có những doanh nghiệp phải chi không chính thức cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ điện nước, mặc dù con số này là không lớn (4,1%). 
    
    - Trong quan hệ với doanh nghiệp cho thuê mặt bằng: Khoảng 18% doanh nghiệp được khảo sát trả lời rằng, đã mất thêm chi phí không chính thức. Chi phí không chính thức này được hiểu bao gồm cả tiền, quà biếu bằng hiện vật, tạo cơ hội việc làm cho người thân/quen của người đại diện bên cho thuê… 
 
    - Trong quan hệ với bên cung cấp vốn: Theo khảo sát về việc tiếp cận các khoản vay hỗ trợ của Nhà nước, có tới 39,8% đồng ý và 7,6% hoàn toàn đồng ý khi cho rằng, việc tiếp cận với các nguồn vốn vay hỗ trợ của Nhà nước thì cần phải có chi phí bồi dưỡng cán bộ tín dụng. Cũng có tới gần 60% doanh nghiệp đồng ý rằng phải có mối quan hệ với ngân hàng hoặc cán bộ tín dụng mới được vay vốn hỗ trợ. 
 
    Cũng theo Báo cáo này, trong khu vực doanh nghiệp, quan hệ giữa doanh nghiệp đi vay và doanh nghiệp cung cấp nguồn vốn cũng có những mảng tối của tham nhũng. Điều này cũng đã được kiểm chứng qua các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu của nhóm nghiên cứu. Theo ý kiến một số người được phỏng vấn ở Hà nội, hiện tượng tham nhũng trong quan hệ tín dụng và cho vay là phổ biến. Việc vay vốn không dễ dàng đối với những doanh nghiệp vay từ quỹ hỗ trợ đã phân bổ cho một số ngân hàng thương mại. Theo đó, thực tế các doanh nghiệp hoạt động nghiêm chỉnh, có nhu cầu thực sự để mở rộng sản xuất cũng khó tiếp cận với nguồn vốn này vì chi phí bỏ ra quá cao, vượt xa với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp. Có ý kiến cho rằng, các hoạt động hỗ trợ vay vốn của Nhà nước khó đến được với các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà chủ yếu dành cho các tập đoàn lớn và cho những đối tượng nghèo và khó khăn trong các dự án chính sách hỗ trợ. 
 
    Đối với những ngân hàng thương mại bình thường, doanh nghiệp có thể được hỗ trợ bởi quỹ hỗ trợ bảo lãnh tín dụng bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nếu có nhu cầu. Tuy nhiên, việc bảo lãnh này cũng đòi hỏi phải có những chi phí phát sinh không chính thức liên quan. 
 
    Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy rõ ràng là trong khu vực doanh nghiệp, tham nhũng không chỉ có trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khu vực nhà nước mà giữa các doanh nghiệp với nhau cũng xảy ra hiện tượng này. Trong nội bộ doanh nghiệp ngoài nhà nước, cũng xảy ra hiện tượng một số người nắm giữ quyền hạn trong việc quản lý tiền và tài sản của doanh nghiệp đã lợi dụng quyền hạn được giao chiếm đoạt tài sản đó; hay sự thiếu minh bạch và lành mạnh trong hoạt động của các ngân hàng, các loại quỹ có huy động các khoản đóng góp của nhân dân... đã gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân. Đồng thời, dưới góc độ kinh tế, tham nhũng trong khu vực tư sẽ làm tăng chi phí và giảm đáng kể lợi nhuận của doanh nghiệp, làm hình thành những thói quen kinh doanh thiếu lành mạnh, làm méo mó bản chất các quan hệ kinh tế. 
 
    Về lâu dài tham nhũng sẽ bào mòn sức cạnh tranh của doanh nghiệp, bào mòn tư tưởng cạnh tranh bình đẳng. Nếu doanh nghiệp chỉ sống bằng năng lực mà không tạo quan hệ tốt trên cơ sở vật chất sẽ không đạt kết quả như mong muốn. Nếu chỉ sống bằng quan hệ thay vì sống bằng năng lực của chính mình, doanh nghiệp sẽ không có đủ  khả năng để tham gia vào sân chơi quốc tế vì đó là sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi người - và chỉ dành cho những doanh nghiệp nào đủ năng lực. Tuy nhiên, do pháp luật chưa quy định điều chỉnh hành vi tham nhũng trong khu vực tư nên những hành vi tương tự như hành vi tham nhũng xảy ra trong khu vực này thường được xử lý theo các quy định khác của pháp luật có liên quan. Bởi vậy, trong thực tiễn, nhiều trường hợp việc xử lý chưa tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi vi phạm. 
 
    Hiện nay, pháp luật hình sự đã mở rộng phạm vi điều chỉnh bao gồm cả khu vực ngoài nhà nước đối với tội tham ô, đưa hối lộ, nhận hối lộ và môi giới hối lộ; hoàn thiện cấu thành của một số nhóm tội đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tham nhũng; quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân… Bên cạnh đó, chu trình đánh giá tiếp theo đối với Chương II về phòng ngừa tham nhũng và Chương IV về thu hồi tài sản của Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng bắt đầu từ năm 2016 đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Theo đó, cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong cả khu vực nhà nước và ngoài nhà nước một cách toàn diện, sâu rộng như các biện pháp nhận diện và kiểm soát xung đột lợi ích; xây dựng và tuân thủ các nguyên tắc liêm chính trong hoạt động kinh doanh; thực hiện các biện pháp và cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả… 
 
    Hơn nữa, nhiều quan điểm cho rằng nếu Luật PCTN không đưa khu vực tư vào đối tượng điều chỉnh, kiểm soát thì việc PCTN trong khu vực công sẽ giảm đi hiệu quả đáng kể. Vì trong điều kiện hiện nay, sự kết nối các mối quan hệ công - tư diễn ra trong nhiều lĩnh vực, chặt chẽ, đan xen lẫn nhau. Nhiều chuyên gia ví khu vực công - tư như “bình thông nhau”, bởi trong nhiều trường hợp, khu vực tư chính là nơi trú ẩn, “rửa tiền”, là “sân sau” của những quan chức có hành vi tham nhũng trong khu vực công. Bởi vậy, việc PCTN sẽ không có ý nghĩa nếu bỏ qua khu vực tư và PCTN trong khu vực tư cũng chính là để PCTN trong khu vực công hiệu quả hơn. 
 
    Chính vì vậy, việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN trong đó có mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư nhằm đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác PCTN, nâng cao mức độ tuân thủ Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng, phù hợp với một số văn bản luật có liên quan là một yêu cầu tất yếu đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
 
Ban Nội chính Trung ương tổ chức Hội nghị lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi)
Ban Nội chính Trung ương tổ chức Hội nghị lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi)
    2. Nội dung của Dự thảo Luật PCTN sửa đổi về vai trò của khu vực ngoài nhà nước và việc PCTN trong hoạt động kinh doanh 
 
    Nhận thức được tầm quan trọng của việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật sang khu vực ngoài nhà nước là một yêu cầu khách quan, phù hợp với chính sách xử lý hình sự đối với tội phạm tham nhũng, Dự thảo Luật đã quy định về PCTN trong các tổ chức, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Để bảo đảm tính khả thi của Luật, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực ngoài nhà nước dựa trên quan điểm mở rộng từng bước, có trọng tâm, trọng điểm. Trên tinh thần, đối với khu vực tư, Dự thảo Luật chỉ quy định một số vấn đề mang tính nguyên tắc, còn lại, những quy định cụ thể sẽ do các tổ chức, doanh nghiệp đó quy định cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quy mô, tính chất hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp mình. Cụ thể như sau:
 
    Thứ nhất, chủ thể của hành vi tham nhũng
    Trong quy định liệt kê những “người có chức vụ, quyền hạn”, đồng thời có nguy cơ cao là chủ thể của hành vi tham nhũng thì ngoài những đối tượng theo quy định của Luật hiện hành, Dự thảo bổ sung cả đối tượng là “người giữ chức vụ lãnh đạo quản lý trong một số tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước”.
 
    Đồng thời, trong phần giải thích thuật ngữ “cơ quan, tổ chức, đơn vị” được hiểu bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng tiền, tài sản của Nhà nước và tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước. 
 
    Điều này có nghĩa, Dự thảo mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân ngoài khu vực nhà nước (các hành vi tham nhũng và hành vi vi phạm Luật PCTN nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự). 
 
    Thứ hai, về thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị     Dự thảo Luật quy định bắt buộc các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng phải thực hiện việc công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của mình. Theo đó, mọi thông tin về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai, trừ nội dung thuộc bí mật nhà nước, bí mật kinh doanh và những nội dung khác theo quy định của các luật có liên quan. 
 
    Nội dung công khai, minh bạch thực hiện theo các quy định chung bao gồm: (1) Chính sách, pháp luật, quy chế hoạt động, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (2) Kết quả hoạt động, việc bố trí, quản lý, sử dụng kinh phí được ngân sách nhà nước hỗ trợ hoặc từ nguồn huy động của cá nhân, tổ chức.
 
    Đặc biệt xác định rõ trách nhiệm công khai thuộc về người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, theo đó: (1) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan. (2) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện việc kiểm tra, đôn đốc và hướng dẫn tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản lý thực hiện việc công khai, minh bạch. Trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị, yêu cầu người có thẩm quyền xử lý.
 
    Thứ ba, xây dựng liêm chính, văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng trong doanh nghiệp         Trong điều kiện phát triển và hội nhập kinh tế hiện nay, khái niệm văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh thường xuyên được nhắc tới. Kinh doanh là một nghề chính đáng xuất phát từ nhu cầu phát triển của xã hội, do sự phân công lao động xã hội tạo ra. Vấn đề là ở chỗ kinh doanh như thế nào, nó đem lại lợi ích và giá trị cho ai? Đó chính là vấn đề của văn hóa trong kinh doanh. Văn hóa trong kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào hoạt động kinh doanh của chủ thể, là văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định, lành mạnh, phi tham nhũng và có trách nhiệm với xã hội. “Văn hóa trong kinh doanh là bộ phận cấu thành của nền văn hóa dân tộc, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh. Bản chất của văn hóa trong kinh doanh đó là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Cái lợi đó tuân theo cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Ngược lại cái đúng, cái tốt, cái đẹp là cơ sở bền vững cho hoạt động sinh ra cái lợi”(1)
 
    Trong doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp hay văn hóa kinh doanh đem lại những tác dụng to lớn. Nó tạo động lực làm việc cho người lao động, đem lại lợi thế cạnh tranh, làm tăng hiệu quả hoạt động và giúp doanh nghiệp cạnh tranh tốt trên thị trường. Văn hóa kinh doanh chính là yếu tố chủ yếu cấu thành văn hóa doanh nghiệp. Cũng như một tập thể xã hội muốn đoàn kết và có trật tự thì không thể thiếu văn hóa. Một doanh nghiệp muốn hoạt động hiệu quả sẽ không thể thiếu yếu tố “văn hóa kinh doanh”. 
 
    Dưới góc độ PCTN, Dự thảo Luật có những quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong việc xây dựng liêm chính trong doanh nghiệp mình, đồng thời khuyến khích các chủ thể xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng. Việc bảo đảm liêm chính, xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng có vai trò hết sức quan trọng, góp phần hiệu quả vào việc PCTN trong khu vực này.
 
    Dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của doanh nghiêp nói chung trong việc xây dựng quy tắc ứng xử, cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa tham nhũng trong doanh nghiệp, cụ thể: Doanh nghiệp có trách nhiệm ban hành, thực hiện quy tắc ứng xử trong doanh nghiệp mình nhằm xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng. Trong điều lệ, quy chế hoạt động, doanh nghiệp có trách nhiệm quy định về cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm phòng ngừa xung đột lợi ích, ngăn chặn, xử lý hành vi tham ô, hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn và các hành vi tham nhũng khác. Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích hội viên của mình xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng, minh bạch; tích cực tham gia vào việc hoàn thiện chính sách, pháp luật. 
 
    Tóm lại, PCTN đối với khu vực ngoài nhà nước là một vấn đề mới, đột phá của Dự thảo Luật PCTN, thể hiện sự nhạy bén, đáp ứng các đòi hỏi của thực tiễn đặt ra cũng như yêu cầu của hội nhập quốc tế. PCTN trong khu vực ngoài nhà nước, thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng được kỳ vọng sẽ là cú hích hiệu quả trong cuộc đương đầu với vấn nạn tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
TS. Trần Đức Lượng
Nguyên Phó Tổng thanh tra Chính phủ
;
.