Nguyên tắc suy đoán vô tội và những kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003

Chủ Nhật, 06/04/2014, 06:33 [GMT+7]
    Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự là một trong những nguyên tắc trụ cột của tố tụng hình sự tạo nên nền tảng chủ đạo, cơ bản mang tính xuất phát điểm, bảo đảm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không bị coi là có tội khi lỗi của họ chưa được cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.      Việc thừa nhận nguyên tắc suy đoán vô tội được coi là thành tựu quan trọng của khoa học pháp lý hiện đại. Theo quan niệm đó, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc là: “Một người bị buộc tội có hành vi phạm tội được coi là vô tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một cách hợp pháp trong một vụ xét xử công khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của người đó” và trong khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật…”. 
    Nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội được hiểu là:
    - Không ai có thể bị kết án dựa trên các giả định về tính có lỗi trong việc thực hiện tội phạm.
    - Trách nhiệm chứng minh tính có lỗi của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Người bị buộc tội không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
    - Tất cả các nghi ngờ đều được giải thích theo hướng có lợi cho người bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
    - Tính có lỗi chưa được chứng minh đồng nghĩa với tính vô tội đã được chứng minh. 
    - Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự được coi là có lỗi trong trường hợp, nếu trong quá trình xét xử chứng minh được lỗi của bị cáo trong việc thực hiện tội phạm. 
    Vận dụng các nội dung trên, nhiều nước trên thế giới đã luật hóa trong luật pháp tố tụng hình sự của nước mình. Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 49 Hiến pháp và Điều 14 của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Liên bang Nga năm 2001 như sau:
    1. Bị can được coi là không có tội, chừng nào lỗi của họ không được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật.
    2. Người bị tình nghi hoặc bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm của bên buộc tội.
    3. Mọi nghi ngờ về tội phạm của bị can nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho bị can.
    4. Bản án kết tội không thể được dựa trên giả định.
    Như vậy, trong pháp luật TTHS Liên bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội với tính chất là nguyên tắc hiến định đã được chính thức ghi nhận theo tên gọi của điều luật với 4 nội dung, thể hiện bước phát triển của khoa học pháp lý TTHS quốc gia này theo hướng bảo đảm dân chủ, quyền con người trong TTHS. 
    Tại Canada, Điều 11.d của Hiến chương về quyền và tự do (đây là một bộ phận của Hiến pháp Canada) quy định: Bất kỳ người nào bị buộc tội phạm một tội đều có quyền suy đoán vô tội cho đến khi được một Tòa án độc lập và công bằng xét xử một cách công khai theo quy định của pháp luật. Canada là một nước có hệ thống thông luật, do vậy các quy định cụ thể về suy đoán vô tội thường được thể hiện ở nhiều án lệ khác nhau.
    Ở Trung Quốc, Điều 12 BLTTHS được ban hành năm 1979 và được sửa đổi, bổ sung năm 1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-01-1997 quy định: Không ai bị coi là có tội, nếu không bị xét xử bởi một Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; Điều 43 Bộ luật này cũng quy định: Thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên theo trình tự, thủ tục quy định trong luật, phải thu thập các loại chứng cứ khác nhau chứng minh sự có tội hay vô tội của nghi can, bị cáo và mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Nghiêm cấm việc bức cung, dùng nhục hình và thu thập chứng cứ bằng các biện pháp như đe dọa, dụ dỗ, lừa gạt và các biện pháp bất hợp pháp khác. Trong pháp luật TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, mặc dù tên gọi của nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được ghi nhận trong luật nhưng hai nội dung
quan trọng nhất của nguyên tắc này đã được thừa nhận.
    Như vậy, pháp luật TTHS của những nước trên, ở mức độ khác nhau đều ghi nhận những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Tuy nhiên, chỉ có pháp luật TTHS của Liên bang Nga là chính thức ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội theo tên gọi của điều luật và ghi nhận đầy đủ bốn nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội tại một điều luật; còn hầu hết pháp luật TTHS của các nước khác đều chỉ ghi nhận hai nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội là: người bị buộc tội chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Đồng thời, để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, pháp luật TTHS các nước đều có quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng về bảo đảm quyền con người đối với người bị buộc tội.
    Ở Việt Nam, những nội dung chủ yếu của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 và các văn bản pháp luật TTHS. Điều 72 Hiến pháp quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều 9 BLTTHS 2003 cũng quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Điều 10 BLTTHS 2003 còn quy định rõ: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Xung quanh nội dung về nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS ở nước ta, cho thấy:
    - Nội dung Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội thuộc nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án. Quy định như vậy là chưa hợp lý, vì nội dung của nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án không liên quan đến quy tắc phân định nghĩa vụ chứng minh trong TTHS.
    - Cho dù pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành có ghi nhận hai nội dung quan trọng của nguyên tắc suy đoán vô tội, nhưng chưa chính thức thừa nhận trực tiếp nguyên tắc này như một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam. Vì không trực tiếp quy định cụ thể nguyên tắc suy đoán vô tội nên có ý kiến cho rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội không được pháp luật TTHS Việt Nam thừa nhận. Tuy nhiên, xét về mặt hình thức, thì nguyên tắc suy đoán vô tội đã được quy định tại 2 điều luật: Tại Điều 9 BLTTHS năm 2003 và Điều 72 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội chi phối rất nhiều các quy định của luật TTHS Việt Nam trong nhiều giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm cho đến xét xử phúc thẩm. Trong đó, những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thể hiện rất rõ tại các chế định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo; quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng cũng như cơ quan tiến hành tố tụng…
    - Về kỹ thuật lập pháp TTHS, nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 9, 10 BLTTHS năm 2003, nhưng lại chưa ghi nhận 2 nội dung rất quan trọng của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận, đó là: Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định thì phải được giải thích có lợi cho họ và bản án kết tội của Tòa án không dựa trên những căn cứ giả định. Do BLTTHS năm 2003 chưa có hai nội dung này, dẫn đến những vi phạm pháp luật còn có sự nghi ngờ về chứng cứ, thường cơ quan tiến hành tố tụng vẫn giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo.
    - Một điều chưa hợp lý nữa là, Điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định chủ thể có quyền được suy đoán vô tội là bất cứ người nào (không ai bị coi là có tội), trong khi đó Điều 10 của luật này lại hạn chế đối tượng có quyền được suy đoán vô tội (bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội). Điều 9 BLTTHS đã sử dụng cụm từ “không ai”, tức là “bất kỳ người nào” cũng là chủ thể của nguyên tắc suy đoán vô tội. Có thể nói, đây là một hạn chế, vì cách diễn đạt như vậy chưa thể hiện được đầy đủ bản chất của suy đoán vô tội và chưa trả lời rõ ràng được câu hỏi: “Ai được suy đoán vô tội”. Người được suy đoán vô tội đương nhiên là những người bị buộc tội, công dân không bị buộc tội, không vi phạm pháp luật, thì họ không cần được suy đoán vô tội. Mặt khác, Điều 10 BLTTHS năm 2003 có vẻ như mâu thuẫn với những quy định tương ứng về người bị tạm giữ, bởi lẽ, với tính cách là một trong những người bị buộc tội, theo quy định tại Điều 45 BLTTHS năm 2003, người bị tạm giữ, người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú và những người bị khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm - Những người này chưa bị buộc tội, song họ đã bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế TTHS nghiêm khắc nhất là bắt (bắt người trong trường hợp khẩn cấp, hoặc người phạm tội quả tang).
    Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật TTHS Việt Nam cần được coi là một trong những nguyên tắc trụ cột và là một nhu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng đã nêu phương hướng: Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhiệm vụ đặt ra đối với công tác cải cách tư pháp là: Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp.
    Nội dung các quan điểm, chủ trương, đường lối nêu trên thể hiện định hướng của Đảng ta trong việc chỉ đạo các cơ quan hữu quan nhận thức đầy đủ tính chất và nhu cầu cấp bách của việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong TTHS; trong việc đổi mới và hoàn thiện các các quy định về TTHS phù hợp với chuẩn mực quốc tế và nâng cao ý thức tự giác giám sát hoạt động đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật của nhân dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
    Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, trong đó tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp cần phải quán triệt một số định hướng lớn sau đây: 
    - Tôn trọng, bảo đảm và thực hiện quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Trong chiến lược phát triển toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực chính của sự phát triển. Nhà nước với tư cách là tổ chức công quyền có nghĩa vụ tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Đại hội lần thứ X của Đảng nêu rõ yêu cầu Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người để thực hiện đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 
    - Các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng, tránh vi phạm, nhất là các quy định có liên quan đến cơ sở pháp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp điều tra, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, quyền hạn của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Các giải pháp đặt ra để hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS phải chú trọng phương diện tôn trọng và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Việc xét xử tại các cấp xét xử phải công khai, minh bạch, tạo điều kiện tối đa cho việc kiểm tra, giám sát xã hội đối với hoạt động xét xử của tòa án.
    Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật TTHS và các ngành luật có liên quan nhằm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật TTHS.
    - Thực hiện cải cách tư pháp, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, đặc biệt trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự, khắc phục tình trạng xử lý oan, sai, dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
    - Hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS nhằm bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội vừa phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa; vừa tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đồng thời, đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai. 
    Với ý nghĩa to lớn của nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật TTHS, Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã đưa ra những quy định về quyền con người, quyền công dân xuất phát từ nhu cầu bảo đảm các quyền tố tụng của họ khi bị buộc tội. Lần đầu tiên ở Việt Nam, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được hình thành sát với yêu cầu chuẩn mực pháp lý quốc tế, đề ra những yêu cầu có nội dung phù hợp với nguyên tắc xét xử công bằng và nguyên tắc thủ tục pháp lý chặt chẽ, cụ thể tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định:
    1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
    2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của Luật thì việc tuyên án phải được công khai”...
    Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp và cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi), sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 là việc làm bắt buộc. Tuy còn có những quan điểm khác nhau, nhưng chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng: Cần bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội trong BLTTHS (mới) nhằm thực hiện mục đích của TTHS là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt động TTHS. Mục đích này xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội, đó là không một người vô tội nào phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt khi cơ quan tố tụng không chứng minh được một người nào đó phạm tội thì phải quyết định người đó không có tội. Thực chất, nguyên tắc suy đoán vô tội chính là bảo đảm cần thiết cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong TTHS. Bên cạnh việc thiết lập cơ sở hiến định mới của việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong TTHS (mới), thì cùng với việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội trong BLTTHS năm 2003 (sửa đổi, bổ sung) theo hướng sẽ bổ sung đầy đủ nội dung của nguyên tắc này; đồng thời, quy định rõ tên của nguyên tắc là suy đoán vô tội trong một điều luật.
    Trên tinh thần đó, chúng tôi kiến nghị viết lại Điều 9 và sửa lại Điều 10 trong BLTTSH năm 2003 như sau:
    Điều 9: Suy đoán vô tội - Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
    - Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình. 
    - Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.
    - Bản án kết tội của Tòa án không dựa trên những căn cứ giả định.
    Điều 10: Xác định sự thật của vụ án Giữ nguyên đoạn “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
    Bỏ đoạn “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Vì đoạn này đã nói ở Điều 9.
Phạm Thị Hoài Bắc
(Ban Nội chính Trung ương)
 
;
.