An Giang: Cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển

Thứ Ba, 17/11/2015, 12:08 [GMT+7]
    Qua 5 năm thực hiện cải cách hành chính (2011-2015), được sự chỉ đạo, quan tâm thường xuyên của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính tỉnh An Giang đã đôn đốc, hướng dẫn và quản lý điều hành, tổ chức thực hiện cải cách hành chính của các cấp chính quyền. Các lĩnh vực quan trọng, những vấn đề đang được quan tâm, những vấn đề mang tính bức xúc đều chuyển biến tích cực, hoạt động của chính quyền các cấp đi vào nền nếp, đúng quy định của pháp luật.
 
    Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh đã ban hành 316 văn bản quy phạm pháp luật gồm: 65 nghị quyết, 189 quyết định, 62 chỉ thị; trong đó có 246 văn bản liên quan đến cải cách hành chính trên các lĩnh vực. Tiến hành rà soát, hệ thống thời gian ban hành và thứ bậc giá trị pháp lý 1.992 văn bản; kiểm tra 220 văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có chứa quy phạm pháp luật, phát hiện và đề xuất xử lý 17 văn bản. Ban hành Quy định công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật nhằm đảm bảo thực thi nguyên tắc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
 
Tập huấn kỹ năng giao tiếp, văn hoá công sở và đạo đức công vụ cho cán bộ huyện Châu Đốc, tỉnh An Giang
Tập huấn kỹ năng giao tiếp, văn hoá công sở và đạo đức công vụ cho cán bộ huyện Châu Đốc, tỉnh An Giang
    Đến giữa năm 2013, 100% cơ quan hành chính từ cấp tỉnh đến cấp xã đã thành lập Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả một cửa; giải quyết thủ tục hành chính mang tính liên thông ở một số thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của nhiều cơ quan, địa phương, như: Thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thuế, đăng ký mẫu dấu đối với doanh nghiệp thành lập trên địa bàn; thủ tục đầu tư; cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh… Đa số các sở, ngành đã ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động giải quyết thủ tục hành chính, tạo thuận lợi, tiết kiệm về thời gian, công sức, chi phí cho tổ chức, cá nhân. 
 
    Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức, ban hành quy chế làm việc nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn cấp tỉnh trên cơ sở quy định, hướng dẫn của Trung ương; thành lập 51 tổ chức; kiện toàn tổ chức bộ máy 22 cơ quan, đơn vị.
 
    Tác phong làm việc của cán bộ, công chức văn minh hơn, tiếp thu và tôn trọng ý kiến nhân dân, ý thức kỷ luật tốt hơn. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức và năng lực, “làm hết việc chứ không phải hết giờ” để đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, phát triển đất nước.
 
    Triển khai phần mềm quản lý văn bản và chỉ đạo điều hành trên môi trường mạng trong cơ quan Nhà nước, vận hành phần mềm Văn phòng điện tử, đảm bảo việc gửi, nhận văn bản liên thông trên địa bàn. Đầu tư xây dựng 13 hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến tại UBND tỉnh và huyện; các cơ quan, đơn vị cũng ứng dụng nhiều phần mềm quản lý chuyên dùng, như: Phần mềm báo cáo tiến độ dự án, phần mềm kế toán, phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu chuyên ngành… Các cổng thông tin điện tử cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến; toàn tỉnh có 45/45 cơ quan hành chính áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008. 
 
    Cải cách hành chính ở tỉnh An Giang đã mang lại những kết quả thiết thực góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh An Giang giai đoạn 2011-2015 bình quân đạt 8,63%, GDP bình quân đầu người đạt trên 39 triệu đồng, tăng trên 17 triệu đồng so với năm 2010. Kinh tế biên giới phát triển mạnh, đứng đầu về kim ngạch xuất nhập khẩu trong 10 tỉnh giáp Campuchia. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng chính quyền, quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội, an sinh xã hội... phát triển toàn diện và bền vững.
 
    Chương trình Cải cách hành chính giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh An Giang sẽ được triển khai đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nhà nước để đáp ứng yêu cầu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. 
Cù Tất Dũng
;
.