Một số nội dung mới quan trọng trong bộ luật hình sự năm 2015
Thứ Năm, 15/02/2018, 14:39 [GMT+7]
1. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân được lần đầu tiên quy định
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đã lần đầu tiên quy định chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại Chương XI gồm 16 điều (từ Điều 74 đến Điều 89) và trong 08 điều khác thuộc Phần những quy định chung của Bộ luật (các điều 2, 3, 8, 9, 33, 35, 46 và 60) cũng như 33 điều thuộc Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật. Đây là điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền thống về vấn đề tội phạm và hình phạt, khi cách hiểu truyền thống cho rằng trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng cho cá nhân và thực tế BLHS năm 1999 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân.
Qua thực tiễn xử lý các vụ việc điển hình trong thời gian qua cho thấy những khó khăn, vướng mắc và hạn chế hiện nay trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật của pháp nhân bằng biện pháp hành chính và dân sự. Về mặt tố tụng, các biện pháp hình sự xử lý pháp nhân có nhiều ưu điểm so với các biện pháp hành chính, dân sự; bởi việc xử lý hình sự sẽ được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng mang tính chuyên nghiệp cao, với trình tự, thủ tục tư pháp chặt chẽ, minh bạch, sử dụng các chế tài mạnh mẽ, các biện pháp nghiệp vụ chuyên sâu (mà trong xử lý hành chính, dân sự không có) trong việc chứng minh các hành vi vi phạm và xác minh mức độ thiệt hại do pháp nhân gây ra. Đồng thời, quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong đó có hội nhập về pháp luật, tư pháp đang diễn ra mạnh mẽ dẫn đến đòi hỏi sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước. Trong khi pháp luật của rất nhiều quốc gia trên thế giới quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội thì Việt Nam cũng cần tiếp thu và vận dụng một cách phù hợp vấn đề này.
Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, hết sức phức tạp, do vậy, để bảo đảm sự thận trọng trong việc quy định chính sách mới, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, BLHS đã xác định rõ giới hạn áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng hẹp cả về chủ thể lẫn về loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
- Về chủ thể, Điều 2 của BLHS quy định chế định này chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại;
- Về loại tội, Bộ luật (Điều 76) quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 33 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS (chiếm tỷ lệ 10,50%), trong đó có 22 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về kinh tế, 09 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về môi trường và chỉ có 02 tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đồng thời, Bộ luật (Điều 75) cũng quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại Điều 33 và Điều 46 của BLHS bao gồm: 03 hình phạt chính: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn; 03 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; 04 biện pháp tư pháp: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
2. Hình phạt và áp dụng hình phạt bảo đảm chính sách hình sự hướng thiện, tôn trọng quyền con người, quyền công dân
Bộ luật hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù theo hướng phạt tiền là hình phạt chính không chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng như quy định của BLHS năm 1999 mà cả trường hợp phạm các tội nghiêm trọng. Riêng đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường thì phạt tiền là hình phạt chính có thể áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, BLHS đã mở rộng nội hàm của hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, trong trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ với thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần. Biện pháp này không áp dụng đối với người già yếu, phụ nữ có thai. Bộ luật cũng đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, hình phạt này được áp dụng cả đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.
Đồng thời, đối với hình phạt tù, Bộ luật khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37), theo đó, tại Phần các tội phạm, số lượng các khoản không quy định hình phạt tù tăng từ 06 khoản lên 31 khoản so với quy định của BLHS năm 1999.
3. Giảm hình phạt tử hình và áp dụng hình phạt tử hình
Một trong những nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng lần này là tiếp tục giảm hình phạt tử hình theo định hướng thể chế hóa chủ trương của Đảng về hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Việc tiếp tục thực hiện chủ trương hạn chế hình phạt tử hình cần phải được thực hiện trên tinh thần quán triệt quan điểm bảo đảm sự cân đối, hài hòa giữa yêu cầu bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền sống theo Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Theo đó, Điều 40 của BLHS (sửa đổi) năm 2015 đã xác định rõ tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ tử hình ở 07 tội danh: (1) Cướp tài sản; (2) sản xuất, buôn bán hàng cấm là lương thực, thực phẩm; (3) tàng trữ trái phép chất ma túy; (4) chiếm đoạt chất ma túy; (5) phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; (6) chống mệnh lệnh; (7) đầu hàng địch. Đồng thời, Bộ luật cũng đã bỏ tội danh hoạt động phỉ trước đây có quy định hình phạt tử hình. Như vậy, BLHS năm 2015 vẫn còn duy trì hình phạt tử hình đối với 18 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS năm 2015 (chiếm tỷ lệ 5,73%) thuộc 07/14 nhóm tội phạm, giảm 11 tội danh (gần 06%) so với BLHS năm 1999 và giảm 04 tội danh (gần 03%) so với BLHS (sửa đổi năm 2009).
Bộ luật lần này đã bổ sung thêm các trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình, theo đó, hình phạt tử hình không áp dụng đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành án tử hình đối với họ. Quy định này nhằm góp phần hạn chế tử hình trên thực tế.
4. Bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện
Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện với những quy định hết sức chặt chẽ nhằm tạo cơ hội cho những phạm nhân tích cực cải tạo tốt trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam giữ được sớm trở về với gia đình và tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình trong môi trường xã hội bình thường có sự giám sát của chính quyền địa phương và xã hội. Nếu trong thời gian thử thách mà người được tha tù trước hạn cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc phạm tội mới thì phải trở lại cơ sở giam giữ để chấp hành tiếp phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trong môi trường xã hội.
5. Thu hẹp phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm tội
Theo BLHS năm 1999, phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội là khá rộng, bao gồm chuẩn bị phạm bất cứ tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nào được quy định trong BLHS. Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm tội, theo đó, người có hành vi chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 25 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 7,96%) thuộc 05 nhóm tội phạm (các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội xâm phạm an toàn công cộng).
6. Điều chỉnh mạnh mẽ chính sách hình sự theo hướng bảo đảm lợi ích cho người chưa thành niên phạm tội
Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Bộ luật đã thu hẹp đáng kể phạm vi trách nhiệm hình sự của đối tượng này, theo đó, các em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc 28 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 8,91%) thuộc 04 nhóm tội phạm: (1) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; (2) các tội xâm phạm sở hữu; (3) các tội phạm về ma túy; (4) các tội xâm phạm an toàn công cộng. Ngoài ra, các em cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 0,63%). Đó là: Tội giết người và tội cướp tài sản. Như vậy, có thể thấy, trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nghiêm trọng và tính phổ biến của hành vi phạm tội do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi gây ra trong thời gian qua cũng như dự báo trong thời gian tới, BLHS năm 2015 đã xác định nhóm các tội danh mà các đối tượng trong độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự (kể cả trường hợp chuẩn bị phạm tội) chủ yếu tập trung vào các tội gây hậu quả cho tính mạng, sức khỏe con người và an toàn công cộng.
Bộ luật hình sự năm 2015 cũng đã cụ thể hóa các điều kiện miễn trách nhiệm hình sự áp dụng riêng cho từng đối tượng người chưa thành niên (người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi), đồng thời, bổ sung 03 biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp các em được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là: (1) Khiển trách; (2) hòa giải tại cộng đồng; (3) biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Bộ luật cũng quy định rõ điều kiện áp dụng từng biện pháp cụ thể nêu trên.
Một điểm mới đáng lưu ý trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên là BLHS năm 2015 quy định rõ trong 03 trường hợp người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích: (1) Người bị kết án là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; (2) người bị kết án là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án do lỗi vô ý về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng; (3) người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp (giáo dục tại trường giáo dưỡng). Ngoài 03 trường hợp nêu trên, thì theo Điều 69 của BLHS, người chưa thành niên bị kết án nhưng được miễn hình phạt cũng không bị coi là có án tích.
7. Phi tội phạm hóa và hình sự hóa bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm
Bộ luật hình sự lần này đã bỏ 06 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999, gồm: (1) Tảo hôn; (2) kinh doanh trái phép; (3) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (4) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (5) sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; (6) không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đồng thời tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, tránh sự tùy tiện trong áp dụng, trên cơ sở cân nhắc kỹ kết quả tổng kết thực tiễn xét xử về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) trong những năm qua, đồng thời, rà soát quy định của các luật chuyên ngành trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các tội danh hiện có trong Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự kinh tế (gồm 38 điều), Bộ luật hình sự đã thay thế Điều 165 BLHS năm 1999 bằng 09 tội danh mới thuộc các lĩnh vực: Quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất, quy định cụ thể tại các điều 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224 và Điều 230 của BLHS.
Cùng với việc phi tội phạm hóa, BLHS năm 2015 đã bổ sung 34 tội danh mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, 17 tội danh về kinh tế, môi trường mới được bổ sung như đã nêu trên, Bộ luật còn bổ sung 17 tội danh mới thuộc 07 nhóm tội phạm khác, đặc biệt là nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông đang có chiều hướng gia tăng.
8. Xây dựng chương riêng về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Bộ luật hình sự sửa đổi lần này đã bổ sung một chương riêng (Chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26) nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn để khuyến khích người dân an tâm, tích cực tham gia phòng, chống tội phạm; tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung.
9. Định lượng các tình tiết định tội, định khung mang tính định tính trong nhiều tội danh của BLHs năm 1999
Bộ luật hình sự lần này đã cụ thể hóa tối đa các dấu hiệu định tội, định khung mang tính chất định tính, trừu tượng (về hậu quả, thu lợi bất chính, số lượng,...) trong cấu thành của hầu hết các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trên cơ sở rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS hiện hành, lựa chọn những nội dung hướng dẫn về các tình tiết này đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định là còn phù hợp nhằm tăng tính minh bạch, rõ ràng của BLHS.
10. Sửa đổi, bổ sung quan trọng về tội phạm chức vụ, tham nhũng
Bộ luật lần này đã mở rộng phạm vi một số tội tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước (khu vực tư), theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước mà thực hiện hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ thì cũng bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các điều 353, 354 của BLHS. Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới hối lộ theo quy định tại các điều 364, 365 của BLHS. Đây là điểm mới quan trọng nhất trong BLHS lần này liên quan đến các quy định về tội phạm tham nhũng.
Việc bổ sung này thể hiện xu hướng và nhu cầu khách quan; bởi lẽ, tham nhũng đang diễn biến phức tạp, khó lường và không còn ranh giới rõ ràng hoặc sự khác biệt lớn khi so sánh về tác hại giữa tham nhũng trong khu vực công và khu vực tư. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tham nhũng trong khu vực tư đang phá vỡ các nguyên tắc vận hành của nền kinh tế, hình thành những thói quen kinh doanh bất chính, làm suy yếu năng lực cạnh tranh của chính các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Một điểm mới quan trọng nữa là, Điều 28 của Bộ luật đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm truy đến cùng những tội phạm tham nhũng lớn, góp phần tăng cường công tác đấu tranh PCTN. Đồng thời, Điều 61 của Bộ luật đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu thi hành bản án đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm góp phần tăng cường công tác đấu tranh PCTN.
Ngoài ra, BLHS năm 2015 đã quy định “của hối lộ” bao gồm không chỉ lợi ích vật chất mà cả lợi ích phi vật chất mà người phạm tội có được một cách bất hợp pháp do quyền hạn đem lại.
Ths. Nguyễn Hà Thanh
(Ban Nội chính Trung ương)
;