Đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
Thứ Ba, 31/01/2017, 05:41 [GMT+7]
Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng đến các nguồn lực công, xâm hại đến hoạt động đúng đắn của bộ máy nhà nước, làm sai lệch công lý, công bằng xã hội, suy giảm niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển đất nước, xã hội. Công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài.
|
Thời gian qua, cùng với những thành tựu quan trọng đạt được về kinh tế xã hội, đối ngoại, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội, công tác PCTN có nhiều chuyển biến tích cực cả về phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục về PCTN được quan tâm; thể chế về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN tiếp tục được hoàn thiện; công tác cải cách hành chính, công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt được những kết quả tích cực; công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý các vụ việc, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được tăng cường; nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh(1); vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và nhân dân trong PCTN từng bước được phát huy; hợp tác quốc tế về PCTN tiếp tục được mở rộng, củng cố. Tham nhũng bước đầu được kiềm chế, góp phần thiết thực giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Đạt được những kết quả trên đây là do có sự quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh PCTN; sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, ráo riết với nhiều quyết sách đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Quốc hội, Chính phủ; sự nỗ lực, cố gắng của các cơ quan tham mưu và của các cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, địa phương, nhất là sự nỗ lực rất cao của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN và các cơ quan tiến hành tố tụng Trung ương và địa phương; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và báo chí.
Tuy nhiên, công tác PCTN chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa đạt mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” mà Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) đã đề ra. Tham nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng, với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, xảy ra trên diện rộng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, “làm cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, thách thức nghiêm trọng đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự tồn vong của chế độ”(2).
Phiên họp thứ 11 Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN ngày 28-12-2016. |
Những hạn chế trên đây có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Giữa quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước và hành động thực tế của một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn khoảng cách, nói không đi đôi với làm. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc và thực hiện công tác PCTN. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cơ chế, chính sách, pháp luật về kinh tế - xã hội và PCTN trên một số lĩnh vực còn sơ hở, chưa phù hợp với thực tiễn; một số quy định về PCTN còn hình thức, tính khả thi không cao như kiểm soát tài sản, thu nhập, công khai, minh bạch, xử lý trách nhiệm người đứng đầu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện. Việc thực thi pháp luật nói chung và thực hiện các quy định về PCTN của Đảng và Nhà nước nói riêng chưa nghiêm, một số chủ trương, giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) chưa hoặc chậm được thể chế hóa, chưa được triển khai thực hiện. Chưa kiên quyết sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Mô hình tổ chức các cơ quan, đơn vị chuyên trách về PCTN thiếu ổn định, quyền hạn chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, phương tiện, điều kiện làm việc còn bất cập, chất lượng một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu; còn có những tác động không đúng mang động cơ cá nhân vào quá trình phát hiện, điều tra, xử lý tham nhũng của các cơ quan này. Chưa phát huy tốt sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhân dân, báo chí và truyền thông trong PCTN.
Từ thực tiễn công tác PCTN thời gian qua, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau đây:
Một là: Phải biến quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước về PCTN thành hành động thực tế của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu và quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác PCTN. Quyết tâm chính trị là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của công tác PCTN, nhưng không có sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu, sự vào cuộc của cán bộ, đảng viên, công chức, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội thì quyết tâm chính trị cũng không thể trở thành hiện thực.
Hai là: Trong đấu tranh PCTN phải kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong tình hình hiện nay, phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.
Ba là: Phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế về kinh tế - xã hội và PCTN đồng bộ, thống nhất, khả thi và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả. Thực sự chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn; xóa bỏ tình trạng đặc quyền, đặc lợi, kiểm soát có hiệu quả độc quyền của Nhà nước. Thực tế cho thấy, khi quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ và tình trạng đặc quyền, đặc lợi còn tồn tại, độc quyền Nhà nước bị lạm dụng, lợi dụng sẽ làm nảy sinh tham nhũng và hình thành “nhóm lợi ích”.
Bốn là: Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân, cơ quan truyền thông và báo chí, doanh nghiệp, doanh nhân trong PCTN; phải xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng trong xã hội, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Trong từng thời gian khác nhau phải xác định những nhiệm vụ trọng tâm, những giải pháp có tính đột phá phù hợp với tình hình của đất nước, của địa phương để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Các giải pháp PCTN phải phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc.
Năm là: Chú trọng phát huy vai trò nòng cốt của các cơ quan, đơn vị có chức năng PCTN (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Kiểm tra, Thanh tra, Kiểm toán, Ban Nội chính), trước hết là các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Xây dựng các cơ quan, đơn vị này thực sự trong sạch, vững mạnh, có thực quyền; bảo đảm tính độc lập tương đối trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, có cơ chế phối hợp chặt chẽ; bảo đảm chế độ, chính sách, phương tiện, điều kiện làm việc, trách nhiệm cao và sự liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức. Tăng cường hợp tác quốc tế về PCTN.
Mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp PCTN đã được xác định một cách có hệ thống trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI), Kết luận 21 Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) và Văn kiện Đại hội XII của Đảng; được cụ thể hóa và thể chế hóa bởi nhiều quy định của Đảng và Nhà nước, như: Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, Quy định số 101QĐ/TW ngày 07-6-2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 0712-2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng, Luật PCTN, Luật tiếp cận thông tin, Luật cán bộ, công chức và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và xây dựng Đảng theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phải tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, thực hiện nghiêm túc và đồng bộ các mục tiêu, quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp PCTN theo Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tập trung khắc phục những hạn chế, yếu kém trong thời gian qua, đồng thời quán triệt, thực hiện một số quan điểm, nhiệm vụ trọng tâm và những giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Về quan điểm
Cần nhận thức sâu sắc quan điểm PCTN trong tình hình hiện nay để khắc phục có hiệu quả hai khuynh hướng: Tả khuynh, nóng vội và hữu khuynh, trì trệ, cầm chừng, thiếu quyết liệt. Phải xác định rõ:
Thứ nhất, phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa, chủ động phát hiện và kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham nhũng, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng; không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.
Thứ hai, phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Gắn PCTN với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; gắn PCTN, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân.
Thứ ba, kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng; cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng.
2. Về nhiệm vụ, giải pháp
Một là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác PCTN có hiệu lực, hiệu quả; nhất là xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu; xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức - bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị và thể chế về PCTN theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu của Đảng, các bộ, ngành, cơ quan nhà nước phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, bổ sung, xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành thể chế thuộc phạm vi phụ trách, quản lý của cơ quan, tổ chức, bộ, ngành, địa phương mình. Trước hết sửa đổi toàn diện Luật PTCN, sớm ban hành Luật bảo vệ bí mật nhà nước; hoàn thiện các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, giám định tư pháp, thanh tra, kiểm toán, giải quyết tố cáo; các quy định của pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội, nhất là đối với các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, như: Đầu tư xây dựng (bao gồm cả đầu tư công và đầu tư theo hình thức BT, BOT); thu - chi ngân sách; quản lý, sử dụng tài sản công; cổ phần hóa doanh nghiệp; đất đai, tài nguyên khoáng sản; tài chính, ngân hàng, thuế, hải quan; chế độ, định mức, tiêu chuẩn; v.v… và các văn bản pháp luật liên quan đến PCTN, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả.
Thể chế nói chung và thể chế về PCTN nói riêng cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng. Cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc xây dựng cơ chế, chính sách và pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội để hạn chế sự tác động tiêu cực của “nhóm lợi ích”, “sân sau”, “tư duy nhiệm kỳ”, ngăn chặn nguy cơ nảy sinh tham nhũng từ khi xây dựng và thực hiện chính sách. Thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn một cách hiệu quả; kiên quyết, kiên trì, khẩn trương xây dựng một “cơ chế phòng ngừa để không thể tham nhũng; cơ chế răn đe, trừng trị để không dám tham nhũng”(3) và “một cơ chế bảo đảm để không cần tham nhũng”(4).
Hai là, phát huy đầy đủ, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và tính tiền phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN.
Đấu tranh PCTN là cuộc đấu tranh ngay trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người. Vì vậy, phải phát huy đầy đủ, nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm và tính tiền phong, gương mẫu của cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương. Người đứng đầu phải nêu cao trách nhiệm, gương mẫu, đi đầu, quyết tâm, quyết liệt, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác PCTN, trước hết là trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình phụ trách. Xây dựng quy định về tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng và hoàn thiện chế tài xử lý người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, quy định về những điều đảng viên không được làm. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về PCTN; đảng viên phải gương mẫu hơn quần chúng, cán bộ phải gương mẫu hơn nhân viên, cán bộ càng cao càng phải gương mẫu. Kịp thời xử lý nghiêm những người có hành vi vi phạm quy định về PCTN.
Ba là, tăng cường quản lý, giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên; hoàn thiện, thực hiện nghiêm các quy định về công tác tổ chức, cán bộ phục vụ PCTN.
Khẩn trương rà soát, bổ sung, khắc phục những sơ hở, bất cập trong tuyển dụng, đào tạo, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, quản lý cán bộ, đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải tăng cường quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên; tăng thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền để kiểm điểm, xác minh, kết luận khi có dấu hiệu vi phạm.
Quy định và thực hiện nghiêm việc xử lý, điều chuyển, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý có biểu hiện tham nhũng gây nhiều dư luận, làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, uy tín thấp. Quy định cụ thể và thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương; không bố trí những người có quan hệ gia đình cùng làm một số công việc dễ xảy ra tham nhũng.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vi phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai. Rà soát, hoàn thiện quy định của Đảng và Nhà nước về xử lý kỷ luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa kỷ luật Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương. Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Bốn là, thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện đầu tiên để kiểm soát quyền lực. Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình càng tốt thì càng tạo điều kiện cho các chủ thể giám sát có hiệu quả công tác PCTN, không có vùng tối, vùng trống, vùng cấm trong PCTN. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị và các biện pháp bảo đảm để công dân thực hiện đầy đủ quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật.
Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý thì hiệu quả phòng ngừa tham nhũng càng cao. Tiếp tục hoàn thiện quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là các nội dung về công khai, quản lý, kiểm tra, giám sát, xác minh bản kê khai; trách nhiệm giải trình, chế tài xử lý vi phạm trong kê khai và xử lý tài sản tăng thêm không giải trình được một cách hợp lý. Hoàn thiện quy định và hệ thống cơ sở hạ tầng để chuyển mạnh và tiến tới thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Năm là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Các cơ quan chức năng phải có các giải pháp phù hợp, thuận lợi, an toàn để khuyến khích người dân phát hiện, dễ dàng phản ánh, tố giác tham nhũng. Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Một khi đã xảy ra tham nhũng thì phải xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời, đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có vùng cấm, không có đặc quyền, không có ngoại lệ, phải nghiêm túc tuân thủ sự bình đẳng trước pháp luật, không chịu sự tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Quá trình phát hiện, điều tra, xử lý tham nhũng phải tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó; không phân biệt người có hành vi tham nhũng là ai, đã có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố điều tra, đã kết luận có người phạm tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật(5); vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì phải xử lý kỷ luật nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Xử lý nghiêm, đúng pháp luật cả những người bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng. Chú trọng truy tìm, kịp thời áp dụng các biện pháp kê biên, tạm giữ tài sản, phong tỏa tài khoản và xử lý tài sản tham nhũng ngay trong quá trình thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp; tiến hành thanh tra, điều tra, kiên quyết xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có sai phạm liên quan các dự án lớn thua lỗ, kéo dài, gây lãng phí lớn đang được dư luận xã hội quan tâm.
Tiếp tục kiện toàn Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định mới của pháp luật; kiện toàn tổ chức, bộ máy, cụ thể hơn về thẩm quyền, trách nhiệm, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN, Ủy ban Kiểm tra Đảng, Ban Nội chính, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước trong PCTN; có quy định để ngăn ngừa có hiệu quả sự tác động không đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước vào hoạt động của các cơ quan này. Đổi mới phương thức hoạt động, củng cố, bổ sung, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường phương tiện làm việc của các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng. Về lâu dài, cần nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan chuyên trách chống tham nhũng theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm và tính độc lập tương đối trong thực hiện nhiệm vụ.
Sáu là, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng để ngăn chặn từ gốc nguyên nhân phát sinh tham nhũng.
Thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác phát hiện, xử lý tham nhũng của các cơ quan, đơn vị chức năng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong PCTN.
Phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong PCTN, nhất là giám sát đối với việc thực thi trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan và người có trách nhiệm, thẩm quyền trong PCTN nói chung và trong xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng nói riêng; đồng thời, nghiêm trị những hành vi lợi dụng chống tham nhũng để vu khống, tố cáo sai sự thật, hãm hại người đấu tranh chống tham nhũng.
Xây dựng Đề án tăng cường giám sát, kiểm soát quyền lực, thiết lập bằng được một cơ chế giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn thực sự có hiệu lực, hiệu quả để ngăn ngừa tham nhũng.
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về PCTN; xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, trước hết là trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Xây dựng văn hóa là xây dựng con người; văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng là ứng xử có văn hóa của con người với tiết kiệm, lãng phí, tham nhũng. Do đó, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng phải quyết liệt, kiên trì, thường xuyên, lâu dài. Trước hết là, phải xây dựng ý thức tự giác chấp hành, thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về PCTN, lãng phí; (2) Chủ động xử lý khi có xung đột lợi ích; (3) Xây dựng, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; (4) Phê phán, lên án, đấu tranh với tham nhũng, lãng phí; (5) Trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham nhũng, lãng phí.
Bảy là, từng bước mở rộng hoạt động PCTN ra khu vực ngoài Nhà nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về PCTN.
Tham nhũng không chỉ xảy ra trong các hoạt động thuộc khu vực Nhà nước, mà còn có sự giúp sức, hỗ trợ đắc lực của các đối tượng hoạt động ngoài khu vực Nhà nước. Sự cấu kết giữa những cán bộ, công chức, viên chức thoái hóa, biến chất trong khu vực Nhà nước với những đối tượng hoạt động ngoài khu vực Nhà nước là một dấu hiệu có tính phổ biến hiện nay của tội phạm tham nhũng. Do đó, phải từng bước mở rộng hoạt động PCTN ra ngoài khu vực Nhà nước thì công tác PCTN mới đồng bộ, hiệu quả. Mặt khác, tội phạm tham nhũng có tính quốc tế, là vấn nạn của các quốc gia. Phải đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nước, nhất là các nước có quan hệ truyền thống, các nước có đông người Việt Nam sinh sống. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư pháp của các nước, các tổ chức quốc tế để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội tham nhũng lẩn trốn, chuyển giao tài liệu, chứng cứ và thu hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài. Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong PCTN. Nội luật hóa và thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện và pháp luật của Việt Nam.
(1) Kể từ khi thành lập, riêng các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã đưa ra xét xử sơ thẩm 21 vụ/247 bị cáo, tuyên phạt: 07 bị cáo với 08 án tử hình, 14 bị cáo với 15 mức án tù chung thân, 06 bị cáo tù 30 năm, 203 bị cáo tù từ 15 tháng đến dưới 30 năm; các vụ án Ban Nội chính Trung ương theo dõi, đôn đốc đã xét xử sơ thẩm 18 vụ/68 bị cáo, tuyên phạt: 42 bị cáo tù có thời hạn từ 02 năm đến dưới 30 năm.
(2) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.196. (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.213. (4) Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN kết luận Hội nghị toàn quốc về công tác PCTN (ngày 05-5-2014). (5) Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12-2015 của Bộ Chính trị. |
Đồng chí Phan Đình Trạc
Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương,
Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN
;