Đại Hội XII của Đảng với nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thứ Ba, 31/01/2017, 12:11 [GMT+7]
Đại hội XII của Đảng diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất phức tạp; đất nước đứng trước những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều nội dung liên quan được Đại hội nhận thức sâu sắc, trong đó có nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới.
 
    1. Quá trình đảng ta nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
 
    Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản. Nó không chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đến đường lối, chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và phương hướng đi lên của đất nước. Việc lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH không thể là việc làm tùy tiện, cảm hứng, chủ quan, mà đây thực sự là vấn đề khoa học nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng liêng trước dân tộc và đất nước. Sở dĩ Đảng và nhân dân ta lựa chọn và kiên định độc lập dân tộc và CNXH vì đây là con đường phát triển hợp quy luật khách quan của lịch sử nhân loại, mặc dù biết rõ đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và hiện thời CNXH thế giới đang lâm vào thoái trào.
 
    Ở Việt Nam, lịch sử đã giải quyết vấn đề lựa chọn này từ những năm 20 của thế kỷ XX. Từ thực tiễn bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói là “cái cẩm nang thần kỳ”, là “kim chỉ nam” và “là con đường giải phóng chúng ta”. Tìm ra con đường cứu nước theo phương hướng XHCN là công lao vĩ đại đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kể từ đây Người thực hiện quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học về Việt Nam, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Trong Chính cương vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, Người đã nêu: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng XHCN.
 
    Trung thành với mục tiêu và con đường mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lựa chọn, Đảng ta chủ động vận dụng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ và phương pháp cụ thể. Cương lĩnh chính trị tháng 10-1930 của Đảng nêu rõ: “Tiến hành cách mạng dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên CNXH, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa”. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội II của Đảng tháng 02-1951 cũng nêu: “Cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới CNXH”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) kết luận: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta”(1). Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
 
    Nêu lại những điểm trên đây để khẳng định tính đúng đắn và nhất quán của Đảng ta trong việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối của Đảng trong các giai đoạn cách mạng. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn nhất thiết phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới, là một cuộc cách mạng nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta.
 
    Để xác định đúng đắn con đường đi lên CNXH, đòi hỏi không chỉ xác định đúng đắn mục tiêu, mà còn phải phác thảo được những đường nét cơ bản mô hình hay còn gọi là đặc trưng của CNXH phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử, đồng thời phản ánh được nét đặc sắc của truyền thống dân tộc và xu thế phát triển của thời đại. Từ thực tiễn của 25 năm đổi mới, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định tám đặc trưng, đó là: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(2). Những đặc trưng trên là thành quả của đổi mới nhận thức về CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam, là kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, mang sắc thái riêng của mô hình CNXH Việt Nam và được từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống. Tuy nhiên, độc lập dân tộc và CNXH ở nước ta là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, trong đó nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản và trọng yếu được đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và giải quyết một cách thấu đáo. 
 
Đại hội XII của Đảng
Đại hội XII của Đảng
    2. Đại hội XII với việc kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
 
    Đại hội XII của Đảng đã bổ sung nhận định của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) về tình hình thế giới và trong nước. Trên thế giới, trong những năm tới tình hình sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, nhưng hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là các nước lớn ngày càng tăng. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp, lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. “Cục diện thế giới theo xu hướng đa cực, đa trung tâm diễn ra nhanh hơn. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến cục diện thế giới và các khu vực. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế. Các cơ chế đa phương đứng trước những thách thức lớn. Các nước đang phát triển, nhất là những nước vừa và nhỏ đang đứng trước cơ hội và khó khăn, thách thức lớn trên con đường phát triển. Trong bối cảnh đó, tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước trên thế giới và khu vực vì lợi ích của từng quốc gia tiếp tục diễn ra rất phức tạp”(3). Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài.
 
    Về tình hình trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Đại hội cũng chỉ ra “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biễn phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Từ đó Đại hội chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”(4)
 
    Đánh giá thành tựu và hạn chế 30 năm đổi mới và 5 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) Đại hội XII nêu: “Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(5). Đồng thời, Đại hội cũng chỉ ra nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục, trong đó có: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn và cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để tiếp tục làm rõ. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Đại hội đánh giá: “Những hạn chế và khuyết điểm trên đây đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực phấn đấu không ngừng để khắc phục, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững theo con đường XHCN”(6).
 
    Về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong những năm tới, Đại hội nêu: “Tiếp tục thực hiện có kết quả các phương hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra trong các nghị quyết của Đảng; đồng thời, đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững. Nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập”(7).
 
    3. Quán triệt một số nội dung đại hội Xii trong công tác chính trị, tư tưởng hiện nay
 
    Trước hết, quán triệt mục tiêu tổng quát mà Đại hội đã nêu: “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN”(8). Đồng thời, quán triệt một trong những nhiệm vụ tổng quát: “Tiếp tục quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và chính trị; giữa các quy luật thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”(9). Đây là những vấn đề cốt lõi về định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
 
    Hai là, cần quán triệt một số bài học mà Đại hội đã rút ra: Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với Việt Nam. Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của  dân, dựa vào dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, năng lực sáng tạo và mọi nguồn lực của dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và của cả hệ thống chính trị.
 
    Ba là, tiếp tục nâng cao nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của cơ chế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; có quan hệ sản xuất tiến bộ, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Những nhận thức có giá trị định hướng trên cần được tiếp tục cụ thể hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đồng thời, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, năng lực trong quản lý kinh tế của Nhà nước.
 
    Bốn là, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, H.1991, tr.4.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.14.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.71-72.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.75.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.66.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.68.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.75-76.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.80.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.117.

PGS. TS Lê Văn Yên
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia)

;
.