Nội dung về chống tham nhũng trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

Thứ Sáu, 11/03/2016, 15:38 [GMT+7]
    Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (tiếng Anh: Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp định/ thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước (trong đó có Việt Nam) vào ngày 4 tháng 2 năm 2016 tại Auckland, New Zealand sau 7 năm đàm phán với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Hiệp định bao gồm 30 chương, đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa và chống tham nhũng,...
 
    Trong đó, nội dung Chống tham nhũng được đề cập tại Mục C của Chương 26 “Minh bạch hóa và Chống tham nhũng”:  
 
    1. Phạm vi (Điều 26.6)
 
    1. Các Bên khẳng định quyết tâm của mình trong việc loại trừ hối lộ và tham nhũng trong thương mại và đầu tư quốc tế. Thừa nhận sự cần thiết phải xây dựng tính liêm chính trong cả khu vực công và khu vực tư và mỗi ngành có trách nhiệm kết hợp với nhau trong vấn đề này, các Bên khẳng định sự tuân thủ các nguyên tắc ứng xử APEC cho cán bộ (7/2007), và khuyến khích thực hiện bộ luật của APEC về ứng xử trong kinh doanh: Kinh doanh liêm chính và nguyên tắc minh bạch cho khu vực tư nhân, tháng 9 năm 2007.
 
    2. Phạm vi của Mục này được giới hạn trong các biện pháp để loại trừ hối lộ và tham nhũng liên quan đến bất kỳ vấn đề nào quy định trong Hiệp định này.
 
    3. Các Bên thừa nhận rằng sự mô tả các hành vi phạm tội được thông qua hoặc duy trì theo mục này, và sự mô tả của những biện pháp được áp dụng hoặc các nguyên tắc pháp lý kiểm soát tính hợp pháp của hành vi, được dành riêng cho pháp luật của mỗi Bên, và rằng hành vi phạm tội sẽ bị truy tố và trừng phạt phù hợp với pháp luật của mỗi Bên.
 
    4. Mỗi Bên sẽ thông qua hoặc gia nhập Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, ký kết tại New York, ngày 31 tháng 10 năm 2003 (UNCAC).
 
    2. Các biện pháp chống tham nhũng (Điều 26.7)
 
    1. Mỗi Bên sẽ thông qua hoặc duy trì luật pháp và các biện pháp khác có thể cần thiết để thiết lập các hành vi phạm tội theo pháp luật của mình, trong các vấn đề có ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế, khi phạm tội do cố ý, bởi bất kỳ người nào trong phạm vi tài phán của mình: (1)
 
    (a) việc hứa hẹn, đề nghị hay giao cho một công chức, trực tiếp hay gián tiếp, một lợi thế không chính đáng, đối với công chức đó hoặc một cá nhân hoặc một tổ chức khác, để công chức đó hành động hoặc hạn chế hoạt động liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công chức của mình;
 
    (b) việc một nhân viên công chức xúi giục hay chấp nhận, trực tiếp hay gián tiếp, một lợi thế không chính đáng, đối với công chức đó hoặc một cá nhân hoặc một tổ chức khác, để công chức đó hành động hoặc hạn chế hoạt động liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công chức của mình;
 
    (c) việc hứa hẹn, đề nghị hay giao cho một công chức nước ngoài hay một công chức của một tổ chức quốc tế, trực tiếp hay gián tiếp, một lợi thế không chính đáng(2), đối với công chức đó hoặc một cá nhân hoặc một tổ chức khác, để công chức đó hành động hoặc hạn chế hoạt động liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ công chức của mình, nhằm đạt được hoặc duy trì việc kinh doanh hoặc lợi ích không chính đáng khác liên quan đến việc tiến hành kinh doanh quốc tế; và
 
    (d) các viện trợ, tiếp tay, hoặc thông đồng(3) với bất kỳ hành vi phạm tội được mô tả trong các điểm (a) đến (c).
 
    2. Mỗi Bên cần quy định các hình thức xử phạt cho các hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 hoặc khoản 5 tùy theo mức độ nghiêm trọng của hành vi đó.
 
    3. Mỗi Bên sẽ thông qua hoặc duy trì các biện pháp có thể cần thiết phù hợp với nguyên tắc pháp lý của nước mình để thiết lập trách nhiệm của các pháp nhân đối với vi phạm qui định tại khoản 1 hoặc 5. Đặc biệt, mỗi Bên bảo đảm rằng các pháp nhân chịu trách nhiệm cho hành vi phạm tội mô tả trong khoản 1 hoặc 5 phải chịu các hình thức xử phạt hình sự hoặc phi hình sự có hiệu quả, thích đáng và có tính răn đe, trong đó bao gồm phạt tiền.
 
    4. Không Bên nào cho phép một người trong phạm vi thẩm quyền xét xử của mình khấu trừ thuế các chi phí phát sinh liên quan đến việc phạm tội được mô tả trong khoản 1.
 
    5. Để ngăn chặn tham nhũng, mỗi Bên sẽ thông qua hoặc duy trì các biện pháp có thể cần thiết, phù hợp với luật pháp và quy định của mình, liên quan đến việc lưu trữ các hồ sơ và sổ sách, thuyết minh báo cáo tài chính và chuẩn mực kế toán và kiểm toán, để ngăn cấm các việc sau được thực hiện với mục đích thực hiện một trong các hành vi phạm tội được mô tả trong khoản 1:
    (a) thành lập các tài khoản ngoài sổ sách;
    (b) việc hình thành giao dịch ngoài sổ sách hoặc giao dịch chưa được nhận định đầy đủ;
    (c) việc ghi khống các khoản chi tiêu;
    (d) việc vào sổ các khoản nợ sai đối tượng;
    (e) việc sử dụng các giấy tờ giả mạo; và
    (f) việc tiêu hủy có chủ đích các tài liệu kế toán sớm hơn so với dự kiến của pháp luật.(4)
 
    6. Mỗi Bên sẽ xem xét áp dụng hoặc duy trì các biện pháp bảo vệ, chống lại các quy định phi lý, các cá nhân, trong thiện ý và trên cơ sở hợp lý, báo cáo cấp có thẩm quyền liên quan đến các sự kiện liên quan tới hành vi vi phạm qui định tại khoản 1 hoặc 5.
 
    3. Tăng cường tính liêm chính trong công chức (Điều 26.8)
 
    1. Để chống tham nhũng trong các vấn đề có ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư, mỗi Bên cần đẩy mạnh tính liêm chính, sự trung thực và trách nhiệm của cán bộ công chức của mình. Để đạt được điều này, mỗi Bên cần nỗ lực thông qua hoặc duy trì theo các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật của mình:
    (a) các biện pháp cung cấp đầy đủ các thủ tục cho việc lựa chọn và đào tạo các cá nhân cho các vị trí công được coi là đặc biệt dễ bị tham nhũng, và luân chuyển (nếu được) các cá nhân vào các vị trí khác;
    (b) các biện pháp để thúc đẩy tính minh bạch trong hành vi của cán bộ công chức trong việc thực hiện các chức năng công vụ;
    (c) các chính sách và thủ tục thích hợp để xác định và quản lý các xung đột thực tế hoặc tiềm năng về mối quan tâm của công chức;
    (d) các biện pháp yêu cầu các công chức cấp cao và các công chức thích hợp khác khai báo  cho cơ quan chức năng liên quan đến các hoạt động Bên ngoài, việc làm, đầu tư, tài sản của họ và quà tặng đáng kể hoặc lợi ích mà một cuộc xung đột có thể mang đến liên quan tới chức năng của công chức; và
    (e) biện pháp tạo điều kiện cho việc báo cáo của cán bộ công chức về các hành vi tham nhũng cho cơ quan thích hợp, nếu những hành vi đó có liên quan đến thông báo của họ trong việc thực hiện chức năng của mình.
 
    2. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để chấp thuận hoặc duy trì các mã hoặc các tiêu chuẩn để thực hiện đúng, danh dự và đúng chức năng công vụ, và các biện pháp quy định về kỷ luật hoặc các biện pháp khác, nếu cần thiết, đối với cán bộ công chức vi phạm các mã số hoặc các tiêu chuẩn quy định tại khoản này.
 
    3. Mỗi Bên, ở mức độ phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật của mình, có trách nhiệm xem xét thiết lập các thủ tục mà thông qua đó một quan chức bị cáo buộc là vi phạm quy định tại Điều 26.7.1 (Các biện pháp chống tham nhũng) có thể được gỡ bỏ, đình chỉ hoặc bố trí lại bởi các cơ quan thích hợp, theo hướng tôn trọng nguyên tắc giả định vô tội.
 
    4. Theo các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật và không làm phương hại đến độc lập tư pháp mỗi Bên sẽ chấp thuận hoặc duy trì các biện pháp tăng cường tính liêm chính, và để ngăn chặn các cơ hội cho tham nhũng, giữa các thành viên của ngành tư pháp trong các vấn đề có ảnh hưởng đến thương mại hoặc đầu tư quốc tế. Những biện pháp này có thể bao gồm các quy định liên quan tới các hành vi của các thành viên của ngành tư pháp.
 
    4. Áp dụng và thi hành Luật phòng chống tham nhũng (Điều 26.9)
 
    1. Theo các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật, Bên nào cũng phải thực thi có hiệu quả pháp luật của mình hoặc các biện pháp khác được thông qua hoặc duy trì để thực hiện theo Điều 26.7.1 (Các biện pháp chống tham nhũng) thông qua một khoảng thời gian lặp lại việc hành động hay không hành động, kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực đối với Bên đó, như một sự khích lệ cho thương mại và đầu tư.(5)
    
    2. Theo các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật của mình, mỗi Bên giữ quyền thực thi pháp luật và các cơ quan truy tố và tư pháp của mình được thực hiện theo quyết định của mình liên quan đến việc thi hành luật chống tham nhũng của Bên đó. Mỗi Bên giữ quyền đưa ra quyết định ngay tình đối với việc phân bổ các nguồn tài nguyên của mình.
 
    3. Các Bên xác nhận các cam kết của mình theo các thỏa thuận quốc tế hiện hành hoặc các kế hoạch hợp tác với nhau, phù hợp với hệ thống pháp lý và hành chính của mình, để nâng cao hiệu quả của các hành động thực thi pháp luật nhằm chống lại các hành vi phạm tội được mô tả trong Điều 26.7.1 (Các biện pháp chống tham nhũng).
 
    5. Sự tham gia của khu vực tư nhân và xã hội (Điều 26.10)
 
    1. Mỗi Bên phải có biện pháp thích hợp trong khả năng của mình và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật của mình để thúc đẩy sự tham gia tích cực của các cá nhân và các nhóm Bên ngoài các khu vực công cộng, chẳng hạn như các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ và tổ chức cộng đồng, trong công tác phòng chống và đấu tranh chống tham nhũng trong các vấn đề ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế, và để nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên nhân và tính nghiêm trọng và các mối đe dọa của tham nhũng. Để đạt được mục đích đó, mỗi Bên cần:
 
    (a) thực hiện các hoạt động thông tin công khai và các chương trình giáo dục cộng đồng, góp phần vào việc ngăn chặn triệt để tham nhũng;
    (b) thông qua hoặc duy trì các biện pháp khuyến khích các hội nghề nghiệp và các tổ chức phi chính phủ khác, nếu thích hợp, trong những nỗ lực của họ để khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong việc phát triển quản lý nội bộ, đạo đức và các chương trình tuân thủ hoặc các biện pháp ngăn ngừa và phát hiện hối lộ và tham nhũng trong thương mại và đầu tư quốc tế;
    (c) chấp thuận hoặc duy trì các biện pháp khuyến khích các công ty quản lý lập báo cáo trong báo cáo hàng năm của họ hoặc công bố công khai công tác quản lý nội bộ, đạo đức và các chương trình tuân thủ hoặc các biện pháp, bao gồm các biện pháp góp phần phòng ngừa và phát hiện hối lộ và tham nhũng trong thương mại và đầu tư quốc tế; và
    (d) chấp thuận hoặc duy trì các biện pháp đánh giá, thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, công khai và phổ biến các thông tin liên quan đến tham nhũng.
 
    2. Mỗi Bên sẽ nỗ lực để khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, có xem xét đến cấu trúc và quy mô của các doanh nghiệp, để:
 
    (a) phát triển và áp dụng đầy đủ việc quản lý kiểm toán nội bộ để hỗ trợ việc ngăn ngừa và phát hiện hành vi tham nhũng trong các vấn đề ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư quốc tế; và
    (b) đảm bảo rằng tài khoản của họ và báo cáo tài chính được yêu cầu tuân theo các thủ tục kiểm toán và chứng nhận phù hợp.
 
    3. Mỗi Bên phải có biện pháp thích hợp để đảm bảo rằng các cơ quan chống tham nhũng có liên quan của mình được công chúng biết đến và tạo con đường để tiếp cận vào các cơ quan này, nếu thích hợp, để báo cáo, bao gồm báo cáo nặc danh, về bất kỳ sự cố nào có thể được xem xét để cấu thành vi phạm quy định tại Điều 26.7.1 (Các biện pháp chống tham nhũng).
 
    6. Mối liên hệ với các Hiệp định khác (Điều 26.11)
 
    Trong phạm vi điều 26.6.4 (Phạm vi), không có quy định nào trong Hiệp định này ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các Bên trong Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng,  Công ước Liên hợp quốc về chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, ký kết tại New York vào 15/11/2000, Công ước về chống hối lộ công chức nước ngoài trong các giao dịch kinh doanh quốc tế và các phụ lục, được ký kết tại Paris vào 21/11/1997 hay Công ước liên Mỹ về chống tham nhũng, ký kết tại Caracas vào 29/3/1996.
 
    7. Giải quyết tranh chấp (Điều 26.12)
 
    1. Chương 28 (Giải quyết tranh chấp), được điều chỉnh bởi Điều này, sẽ áp dụng cho mục này.
 
    2.  Một Bên chỉ có thể dựa vào các quy định nêu tại Điều này và Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) nếu thấy một biện pháp của một Bên khác không phù hợp với các nghĩa vụ theo mục này, hoặc nếu thấy một Bên nào khác không thực hiện hiện nghĩa vụ theo mục này theo hướng ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư giữa hai Bên.
 
    3. Không Bên nào phải dùng đến giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều này hoặc Chương 28 (Giải quyết tranh chấp) cho bất kỳ vấn đề phát sinh theo Điều 26.9 (Áp dụng và thi hành Luật phòng chống tham nhũng).
 
    4. Điều 28.5 (Tham vấn) sẽ được áp dụng cho việc tham vấn theo mục này, với những sửa đổi như sau:
 
    (a) một Bên ngoài Bên tham vấn có thể gửi yêu cầu bằng văn bản đến các Bên tham vấn để tham gia vào các cuộc tham vấn, không quá 7 ngày kể từ ngày các yêu cầu tham vấn được gửi đi, nếu thấy rằng thương mại và đầu tư của mình bị ảnh hưởng bởi các vấn đề cần giải quyết. Bên đó cần đính kèm trong yêu cầu của mình giải trình về việc thương mại hoặc đầu tư của mình bị ảnh hưởng bởi các vấn đề cần giải quyết. Bên đó có thể tham gia tham vấn nếu các Bên tư vấn đồng ý; và
    (b) các Bên tư vấn cần đảm bảo các công chức của các cơ quan chống tham nhũng có liên quan của nước mình tham gia vào các cuộc tham vấn.
 
    5. Các Bên tư vấn cần cố gắng hết sức để tìm một giải pháp thỏa đáng cho các vấn đề, trong đó có thể bao gồm các hoạt động hợp tác hoặc một kế hoạch làm việc thích hợp.

    (1) Một Bên không phải là thành viên của Công ước Chống Hối lộ Công chức Nước ngoài trong các Giao dịch Kinh doanh Quốc tế, bao gồm các Phụ lục của Công ước, được hoàn thành tại Paris, vào ngày 21 tháng 11 năm 1997, có thể đáp ứng các nghĩa vụ quy định tại điểm (a), (b) và (c) bằng cách xác định tội phạm được mô tả trong các điểm nói trên ‘trong việc thi hành công vụ’ hơn là ‘liên quan đến việc thực hiện công vụ’.
 
  (2) Để rõ ràng hơn, một Bên có thể quy định trong luật của mình rằng sẽ không bị coi là vi phạm nếu khoản lợi ích đó là được phép hoặc yêu cầu theo quy định của các văn bản luật hoặc quy định của quốc gia của một công chức nước ngoài, bao gồm cả án lệ. Các Bên khẳng định rằng họ không khuyến khích những văn bản luật hoặc quy định đó.
 
    (3) Các Bên có thể đáp ứng cam kết liên quan đến âm mưu thông qua các khái niệm được áp dụng trong các hệ thống pháp luật của chính các Bên, bao gồm cả asociación ilícita.
 
    (4) Đối với Hoa Kỳ, cam kết này chỉ áp dụng đối với các tổ chức phát hành có loại chứng khoán được đăng ký theo luật 15 U.S.C 78 l hoặc được yêu cầu nộp báo cáo theo cách khác theo quy định tại luật 15 U.S.C78o (d).
 
    (5) Để rõ ràng hơn, các Bên thừa nhận rằng các vụ việc đơn lẻ hoặc các quyết định cụ thể được ban hành nếu xét thấy cần thiết liên quan đến việc thực thi luật pháp chống tham nhũng phải tuân thủ luật pháp và các thủ tục pháp lý của mỗi Bên.
Hà Thanh
;
.