Nghiên cứu kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng tại Nhật Bản
Theo Hiến pháp 1947, Nhật Bản theo chế độ quân chủ lập hiến, trong đó: Nhà vua là Nguyên thủ tượng trưng về mặt đối ngoại; Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập; Dân số: 127,3 triệu người (01/04/2010).
Nhật Bản là quốc gia nghèo tài nguyên, dân số đông, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh. Nhờ có chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945-1954). Dù gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế, Nhật Bản vẫn là quốc gia có ưu thế về công nghệ tiên tiến; Nguồn vốn dồi dào; lực lượng lao động cần cù, có tay nghề cao, đội ngũ tri thức đông đảo, được đầu tư vốn lớn. Tổng sản phẩm quốc dân (GDP) năm 2009: 5067,5 tỷ USD; dự trữ ngoại tệ đến 08/2010: 1.070 tỷ USD.
Đoàn cán bộ Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương thăm và làm việc tại Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản lập quan hệ ngoại giao ngày 21/9/1973. Hàng năm, hai nước đều có các cuộc gặp cấp cao. Năm 2002, lãnh đạo cấp cao hai nước nhất trí xây dựng quan hệ Việt Nam - Nhật Bản theo phương châm “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”. Trong chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh vào tháng 4/2009, lãnh đạo hai nước đã nhất trí ra tuyên bố chung “Về quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”.
Nhật Bản là một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, ODA.
Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển, trình độ dân trí cao, người dân có truyền thống về lối sống tự giác, được giáo dục đào tạo tốt nên việc chấp hành pháp luật và các quy chế rất nghiêm túc mọi lúc, mọi nơi; công chức được đào tạo có hệ thống, chuyên sâu, có mức thu nhập cao; các cơ quan, tổ chức được thành lập và được luật hóa cụ thể, chặt chẽ các hoạt động, nên thuận lợi cho phòng ngừa tham nhũng.
1. Tình hình tham nhũng của Nhật Bản
Theo báo cáo của Cục hình sự thuộc Bộ Tư pháp Nhật Bản, trong năm 2008, Nhật có trên 160 vạn cán bộ công chức và có trên 21.800 người vi phạm nói chung. Tuy nhiên trong tổng số người vi phạm thì chỉ có 181 công chức liên quan đến tội tham nhũng (đưa và nhận hối lộ) có 71 người nhận hối lộ. Nhật Bản rất quan tâm đến việc xử lý tội phạm về tham nhũng, do đó tỷ lệ khởi tố các vụ án tham nhũng đạt 78,4% đây là tỷ lệ được xử lý cao nhất trong các loại tội phạm và theo đánh giá của Nhật Bản thì tội phạm tham nhũng được xử lý rất nghiêm khắc, triệt để có như vậy là do lực lượng Cảnh sát (cơ quan điều tra trong lực lượng cảnh sát) mang tính độc lập rất cao. Năm 2009, trong lực lượng Cảnh sát cũng có vài người nhận hối lộ nhưng không lớn, chỉ là những vụ hối lộ nhỏ hầu hết là xử lý nội bộ, chỉ khởi tố vụ án lớn.
Thành phố Osaka là thành phố lớn thứ 2 Nhật Bản, chỉ sau Tokyo, tập trung về công nghiệp. Theo thống kê thì từ 1982 - 2010, gần 30 năm chỉ xảy ra 9 vụ tham nhũng và tất cả đều được xử lý. Riêng trong năm 2009 và 2010 có 2 vụ tham nhũng xảy ra ở Cục cấp nước thành phố. Từ năm 2007 đến năm 2009 thành phố Osaka có 1.944 vụ tố cáo nhưng không có tham nhũng, chỉ là những vi phạm về hành chính như: đi làm không đúng giờ, sử dụng tiền không đúng quy định, một số ít khai gian trong hồ sơ tuyển dụng công chức... Nhóm vi phạm này được xử lý theo Luật công chức của địa phương. Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu để xảy ra tham nhũng, mức cao nhất về hành chính là cảnh cáo.
2. Quy định pháp luật về tham nhũng và biện pháp phòng ngừa
Nhật Bản không có luật về phòng, chống tham nhũng và cũng không có cơ quan, bộ phận chuyên trách phòng, chống tham nhũng. Nhật Bản chỉ coi tội đưa và nhận hối lộ là tội tham nhũng. Tuy nhiên, Luật hình sự của Nhật Bản quy định chi tiết, cụ thể các trường hợp (hành vi đòi hỏi, hứa hẹn nhận hối lộ sau khi công chức đã nghỉ hưu cũng bị xử lý), mức án xử cao nhất đối với Tội hối lộ không quá 7 năm tù. Trường hợp, công chức sử dụng tiền Nhà nước sai quy định hoặc không có quyền mà sử dụng được coi là phạm tội Lừa đảo.
Luật công tố của Nhật Bản quy định công tố viên có quyền điều tra tất cả tội phạm và trường hợp cần thiết có thể tự độc lập điều tra (kể cả khi cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát đã điều tra). Tuy nhiên, trong trường hợp bắt tội phạm, Cảnh sát tư pháp và công tố viên phải xin lệnh của tòa án và sau khi bắt thì chỉ có công tố viên mới có quyền phê chuẩn gia hạn tạm giam. Trong quá trình điều tra cả hai đều hợp tác rất chặt chẽ để tăng cường tính hiệu quả. Trong trường hợp cần thiết cơ quan công tố có quyền ra chỉ thị cho Cảnh sát tư pháp hợp tác và chỉ thị này phải được tuân thủ. Cảnh sát tư pháp sau khi bắt tội phạm phải gửi hồ sơ vụ án cho công tố.
Nhật Bản tự đánh giá, do tình hình trị an rất tốt, vì vậy không có Luật bảo vệ nhân chứng. Khi cần bảo vệ nhân chứng nếu có khó khăn thì tăng cường bảo vệ đối với từng vụ việc cụ thể.
Để tăng cường việc phòng ngừa tham nhũng, Nhật quan tâm xây dựng Luật đạo đức, phổ biến cho tất cả công chức Nhà nước và nhân dân. Luật về công chức Quốc gia điều chỉnh đối với công chức ở Trung ương, Luật công chức địa phương, điều chỉnh công chức ở địa phương.
Cảnh sát toàn quốc có 290.000 người. Ngoài các chức danh lãnh đạo ngành Cảnh sát theo quy định, Nhật thành lập Ủy ban Cảnh sát quốc gia để giám sát hoạt động Cảnh sát Trung ương và địa phương, Ủy ban này gồm có Bộ trưởng và 5 ủy viên. Ở địa phương có Ủy ban cảnh sát địa phương, tùy theo quy mô, ủy ban có từ 3 đến 5 người. Các Ủy ban này chủ yếu giám sát việc thực hiện có đúng nguyên tắc nhằm đảm bảo tính dân chủ và độc lập của lực lượng cảnh sát. Tháng 8/2000, chế độ giám sát được tăng cường vì có sự kiện không tốt xảy ra nên phải cải cách. Chủ yếu do 3 nguyên nhân: Do tính khép kín trong lực lượng cảnh sát; Có sự phê phán của người dân; Thời đại thay đổi, cơ cấu cũ không còn phù hợp. Do đó, Ủy ban giám sát được thành lập và có đề án chiến lược cải cách ngành Cảnh sát, nhằm đạt được 2 vấn đề quan trọng là: tăng cường tính minh bạch; và tự điều chỉnh tốt hơn.
Công tác giám sát nhằm tăng cường giáo dục đạo đức cho cán bộ trong ngành Cảnh sát, cải cách cả ý thức và môi trường để họ tự hào khi làm việc. Hàng năm các Ủy ban giám sát quốc gia và địa phương phải xây dựng kế hoạch giám sát trình Ủy ban cảnh sát; bảo đảm mỗi đồn Cảnh sát một năm phải giám sát một lần, định kỳ 3 tháng có một lần báo cáo cho Ủy ban cảnh sát. Nhờ vậy, số vụ vi phạm trong ngành Cảnh sát đã giảm. Năm 2000 có 568 vụ thì năm 2009 chỉ còn 242 vụ vi phạm. Tất cả các vụ vi phạm đều được xử lý theo quy định của Luật công chức và công khai trên trang Web. Ngoài ra, trong ngành Cảnh sát cũng có quy định cụ thể từng trường hợp vi phạm và mức xử lý tương ứng để đảm bảo khách quan (khi xử lý có xét từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể). Người làm công tác giám sát là do luân chuyển trong ngành một năm một lần và được tập trung tập huấn theo chương trình.
Thành phố Osaka có tổng số 38.941 công chức, do số lượng đông nên thành phố có một bộ phận thanh tra, các bộ phận trực thuộc có thanh tra nội bộ.
Năm 2006, thành phố ban hành Quy chế xử lý vi phạm hoạt động công vụ của công chức, quy chế này căn cứ vào các quy định của Luật công chức và khi xử lý vi phạm của công chức được thông tin rộng rãi. Thành phố áp dụng tăng cường chế độ kiểm soát nội bộ, thành lập bộ phận Kiểm soát nội bộ, mở rộng và tạo thuận lợi cho việc tố cáo, vì vậy trong 4 năm gần đây số vụ việc tố cáo tăng (có 2.815 vụ tố cáo /4 năm, không phải do tham nhũng xảy ra nhiều mà do các vi phạm khác của công chức).
Do tình hình vi phạm của công chức có xu hướng tăng, Thành phố xây dựng Chương trình triệt để xử lý tội phạm tham nhũng (chủ yếu không để xảy ra) được áp dụng 06/2010. Cụ thể có 22 điều khoản quy định: Vi phạm xử lý nặng, làm tốt được thưởng; Khi vi phạm lần 2 xử lý nặng, trường hợp làm tốt được khen hoặc tăng lương; Lập đường dây nóng; Tăng cường kiểm soát nội bộ. Để thực hiện chương trình, kế hoạch chính quyền thành phố thuê những người từng là Cảnh sát để hợp tác điều tra làm rõ. Thông qua chương trình này nhằm triệt để không để xảy ra tham nhũng.
3. Viện nghiên cứu phòng chống tội phạm Châu Á và vùng Viễn đông của Liên Hiệp quốc và Tổ chức JICA Nhật Bản.
Tổ chức này được thành lập 1962 do yêu cầu của các nước Châu Á, do đó Liên Hiệp quốc ký với Nhật Bản để thành lập Viện nghiên cứu. Viện có tổng số 29 nhân viên, giảng viên trực tiếp làm việc và có 9 người tham gia gián tiếp, trong số giảng viên có 5 người nguyên là công tố viên, 1 người nguyên là Thẩm phán Tòa án và 2 người làm công tác trại giam.
Mục đích nghiên cứu của Viện là giúp các nước hợp tác để nâng cao tính hiệu quả, khả thi của Luật hình sự. Vì tội phạm ngày nay có tính chất quốc tế, hoạt động xuyên quốc gia nên tăng cường tìm hiểu, quan hệ đối tác giữa các nước để hiểu biết và hỗ trợ, giúp nhau những kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự nói chung và tội tham nhũng nói riêng. Từ khi thành lập đến nay có 147 khóa tập huấn, mỗi khóa có khoảng trên 25 người (trong đó Nhật Bản khoảng 10 người, còn lại là các nước khác) với 4.200 người tốt nghiệp ở 125 nước, trong đó Việt Nam có 37 người (chủ yếu là cán bộ của các cơ quan nội chính, tư pháp).
Tại khóa tập huấn, mỗi học viên có báo cáo về thực trạng tham nhũng ở nước mình và trao đổi với học viên các nước để học tập lẫn nhau; chia nhóm để thảo luận; đi thực tế tại Nhật Bản; viết báo cáo thu hoạch... Viện mời các chuyên gia Liên Hiệp quốc trình bày kinh nghiệm triển khai thực hiện công ước Liên Hiệp quốc về chống tội phạm và một số kinh nghiệm chống tội phạm tham nhũng và có chương trình tham quan, khảo sát thực tế tại một số cơ quan của Nhật Bản như: Viện Kiểm sát, Tòa án, Tổng cục thuế... Cuối khóa, mỗi học viên tự rút ra những kiến thức, kinh nghiệm có thể học tập được về phòng, chống tham nhũng áp dụng cho nước mình và đề xuất những vấn đề cần các nước hỗ trợ, hợp tác. Khi về nước mỗi học viên sẽ trở thành mạng lưới hợp tác phòng, chống tham nhũng để hỗ trợ, giúp nhau trên nhiều phương diện.
Đối với tổ chức Jica, là tổ chức phi Chính phủ của Nhật Bản đã có quan hệ với Việt Nam qua nhiều chương trình hợp tác giúp tập huấn phòng, chống tham nhũng bằng các dự án như: Giáo dục cán bộ công chức Nhà nước; giám sát hoạt động Nhà nước... Từ năm 2004, Jica đã có viện trợ cho Việt Nam về cải cách hành chính; hợp tác Singapo giúp Việt Nam phòng, chống tham nhũng trong mua sắm công; Tập huấn cho cán bộ chủ chốt về kỹ năng quản lý lĩnh vực công, khả năng lãnh đạo ở địa phương; giúp đỡ đào tạo để phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực thuế.
Theo Jica thì tình hình tham nhũng của Nhật không nhiều, nếu có thì số tiền tham nhũng không lớn, nên không có tổ chức riêng biệt, chuyên trách để làm công tác phòng, chống tham nhũng. Luật công chức điều chỉnh chung nên các cơ quan, tổ chức chủ yếu tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng bằng các biện pháp như: thực thi Luật chống độc quyền, Luật mua sắm công; tăng cường kiểm soát nội bộ; đề cao vai trò của các cơ quan truyền thông (chủ yếu phòng ngừa về mặt tâm lý).
Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển, có nền kinh tế mạnh, quản lý Nhà nước rất khoa học, người dân được giáo dục tốt, có trình độ dân trí cao nên ý thức tuân thủ rất triệt để. Dù số vụ án tham nhũng không nhiều nhưng Nhật Bản rất chú trọng việc phổ biến Luật đạo đức cho công chức để tự giác chấp hành, ngoài ra Nhật Bản còn tăng cường tính công khai minh bạch trong quản lý, tăng cường công tác giám sát, kiểm soát nội bộ (thanh tra nội bộ) tạo điều kiện để công chức và cả người bên ngoài phản ánh, tố cáo việc làm sai trái hoặc vi phạm như: Lập đường dây nóng, đề ra chương trình triệt để xử lý tội phạm tham nhũng... và hình thức phản ánh, tố cáo rất đơn giản,thuận lợi, dễ thực hiện, như: Tố cáo qua Internet, qua thư phản ánh hoặc trực tiếp đều được chấp nhận và xử lý. Vì vậy cơ quan, tổ chức đã nhận được rất nhiều phản ánh, tố cáo đối với công chức Nhà nước dù có những việc rất nhỏ và đa số đều không có dấu hiệu tham nhũng. Đây cũng là biện pháp phòng ngừa tốt của Nhật Bản.
Nhật Bản không có luật riêng về phòng, chống tham nhũng và cũng không có cơ quan chuyên trách. Khái niệm về tội phạm tham nhũng tương đối hẹp, chỉ có các hành vi đưa và nhận hối lộ mới được coi là tham nhũng. Nhật Bản chú trọng xử lý vi phạm theo Luật công chức, nếu vi phạm nặng hoặc tham nhũng sẽ bị đuổi việc, không có lương và các khoản trợ cấp, rất khó tìm việc làm, như vậy bị mất nhiều hơn so với tham nhũng.
Nguyễn Khắc Hợp
(Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương)