Hoàn thiện Quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 về hủy bản án hình sự

Chủ Nhật, 04/06/2023, 07:28 [GMT+7]

    Hủy bản án hình sự là việc Toà án có thẩm quyền ra quyết định bằng văn bản nhằm chấm dứt hiệu lực thi hành đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án cấp dưới khi phát hiện bản án, quyết định đó có sai sót. Để đảm bảo các bản án đúng quy định của pháp luật, khách quan, toàn diện, đầy đủ và tạo niềm tin của quần chúng nhân dân vào hệ thống Tòa án thì việc hủy các bản án có sai sót là rất cần thiết nhưng cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành có nhiều quy định liên quan đến hủy bản án hình sự, tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập hạn chế.

    1. Bất cập, hạn chế quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hủy bản án hình sự   

    Thứ nhất: Đối với quy định “Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm” thuộc trường hợp hủy án để điều tra lại quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) nếu tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên truy tố, tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử theo thẩm quyền và giới hạn của việc thì giải quyết còn có các quan điểm khác nhau:

    Quan điểm thứ nhất: Vẫn hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

    Quan điểm thứ hai: Tùy trường hợp, cụ thể:

    Nếu trong trường hợp cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, nhưng do giới hạn của việc xét xử, tòa án chỉ xét xử những bị cáo những hành vi… mà Viện kiểm sát đã truy tố, thì tòa án phúc thẩm cũng không hủy bản án sơ thẩm mà chỉ kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp tục điều tra, truy tố tội phạm và người phạm tội bị bỏ lọt.

    Nếu trong trường hợp để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn. Do tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhưng Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh thì theo giới hạn của việc xét xử (mới) lẽ ra, tòa án cấp sơ thẩm có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó, nên trường hợp này, tòa án phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị tăng nặng). 

    Trước đây, theo hướng dẫn tại Điểm c, Khoản 5, Mục VI, thông tư liên tịch số 01/TTLT/TANDTC-VKSNDTC, ngày 08/12/1988 của tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLttHS có quy định chỉ những bị cáo bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt, tăng mức bồi thường, áp dụng hình phạt bổ sung hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn, thì tòa án cấp phúc thẩm mới có quyền xét xử theo hướng đó đối với họ.

    Khi xét xử phúc thẩm bản án sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện hoặc tòa án quân sự khu vực theo hướng tăng hình phạt, cần chú ý nếu chỉ có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt, thì tòa án cấp phúc thẩm tỉnh hoặc quân khu chỉ được tăng trong khung hình phạt, mà tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, không được chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn.

    Nếu kháng cáo hoặc kháng nghị yêu cầu áp dụng khung hình phạt khác nặng hơn hoặc tội danh khác nặng hơn, nhưng vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện hoặc tòa án quân sự khu vực, thì tòa án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng khung hình phạt hoặc tội danh nặng hơn đó để xét xử bị cáo. Nhưng nếu khung hình phạt nặng hơn hoặc tội danh nặng hơn đó thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc tòa án quân sự cấp quân khu, thì tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của tòa án nhân dân cấp huyện hoặc tòa án quân sự khu vực rồi chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát làm lại cáo trạng và tòa án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm lại cho đúng thẩm quyền. 

    Như vậy, nếu kháng cáo hoặc kháng nghị yêu cầu áp dụng tội danh khác nặng hơn, nhưng vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện hoặc tòa án quân sự khu vực, thì tòa án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng tội danh nặng hơn đó để xét xử bị cáo.

    Tuy nhiên, hướng dẫn này có còn phù hợp với quy định của BLTTHS hiện hành nữa không? theo quy định tại Điều 358 BLTTHS về hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại trong các trường hợp có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm. Bên cạnh đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

    Như vậy, đối với quy định “Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm” thuộc trường hợp hủy án để điều tra lại quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 358 BLttHS vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, vì vậy, cần có văn bản hướng dẫn thi hành để trong thực tiễn áp dụng thống nhất để thay thế thông tư liên tịch số 01/TTLT/TANDTCVKSNDTC, ngày 08/12/1988
của tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS.

    Thứ hai: Về quy định “Có  vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 358 BLttHS hủy bản án hình sự để xét xử lại. Theo quy định tại Điểm o, Khoản 1, Điều 4 BLTTHS đã giải thích khái niệm có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhưng đây là giải thích chung không có quy định giải thích cụ thể các sai sót bị xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và cũng chưa đề ra tiêu chí phân biệt ranh giới giữa vi phạm nghiêm trọng với vi phạm chưa tới mức nghiêm trọng. Chính vì vậy, việc hiểu cụ thể về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của tòa án cấp sơ thẩm còn có những ý kiến khác nhau.

    Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc Tòa án cấp sơ thẩm đã có những sai phạm về mặt thủ tục tố tụng dẫn đến việc giải quyết xét xử vụ án không tuân thủ những quy định của pháp luật tố tụng hình sự làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các thành phần tham gia tố tụng. 

    Quan điểm thứ hai cho rằng: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử là những vi phạm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án không chính xác hoặc xâm phạm đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng”.

    Như vậy, việc BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích rõ cụm từ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” đã làm cho việc hiểu và áp dụng pháp luật gặp khó khăn, lúng túng, thiếu thống nhất giữa các địa phương, các cấp tòa, ảnh hướng đến chất lượng trong phán quyết của bản án phúc thẩm, giám đốc thẩm. Vì vậy, cần ban hành văn bản hướng dẫn về căn cứ này để trong thực tiễn áp dụng thống nhất. 

    Thứ ba: Về quy định “Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357của BLTTHS” quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 358 BLttHS hủy bản án hình sự để xét xử lại. 

    Ví dụ: A bị khởi tố, điều tra, truy tố về tội giết người nhưng tòa án cấp sơ thẩm kết án A về tội cố ý gây thương tích; bị hại kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt với A; nếu có căn cứ bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới cho thấy A phạm tội giết người thì tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại (vì bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật) nhưng không thuộc trường hợp hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án.

    Như vậy, trong ví dụ trên Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể khắc phục sai lầm của tòa án cấp sơ thẩm bằng việc sửa bản án theo quy định tại Khoản 2, Điều 357 BLttHS vì không có kháng cáo của bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu xét xử bị cáo về tội nặng hơn. Kháng cáo của bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát trong ví dụ nêu trên chỉ có nội dung “tăng hình phạt với A” chứ không phải nội dung “xét xử A về tội giết người”. Nếu kháng cáo của bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát trong ví dụ nêu trên yêu cầu “xét xử A về tội giết người”
thì lúc này Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể áp dụng Khoản 2, Điều 357 BLttHS (sửa bản án sơ thẩm). 

    Căn cứ kháng nghị “Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” cũng là căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chỉ khác ở chỗ bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là bản án chưa có hiệu lực pháp luật còn kháng nghị giám đốc thẩm là bản án đã có hiệu lực pháp luật. Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, trước hết là những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS, BLttHS, sau đó là áp dụng pháp luật nói chung có liên quan như Bộ luật dân sự, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giám định tư pháp,... tuy nhiên, căn cứ vào đâu để xác định bản án của tòa án cấp dưới đã vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng hoặc chưa đến mức nghiêm trọng? Hiện nay, vẫn chưa có văn bản pháp luật nào của cơ quan có thẩm quyền xác định cụ thể cấp độ vi phạm thủ tục tố tụng để tòa án cấp trên dùng làm căn cứ hủy hoặc không hủy bản án của tòa án cấp dưới đã hoặc chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Chính vì vậy, tòa án cấp trên chủ quan nhận định tòa án cấp dưới có hay không vi phạm thủ tục tố tụng mà không căn cứ tiêu chí cụ thể xác định việc vi phạm thủ tục tố tụng như thế nào thì phải hủy hoặc không hủy án của tòa án cấp dưới. Cần có văn bản giải thích rõ các trường hợp được xem là “có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” và hướng dẫn cụ thể trong các trường hợp đó thì trường hợp nào có thể sửa bản án sơ thẩm, trường hợp nào phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

    Thứ tư: Bị cáo kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút kháng cáo nhưng Viện kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn, vấn đề này thực hiện như thế nào? 

    Theo quy định tại Khoản 1, Điều 342 BLttHS, trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Mặt khác, theo quy định tại Điều 348 BLttHS, tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với vụ án mà người kháng cáo đã rút toàn bộ kháng cáo, Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước phiên tòa do thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định.

    Đối chiếu với quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 358 BLTTHS, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm trong trường hợp: “Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm”. Như vậy, quyền quyết định có hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn hay không theo quan điểm của Viện kiểm sát thuộc về Hội đồng xét xử, do đó, có hai trường hợp xảy ra: 

    Một là, Hội đồng xét xử chấp thuận quan điểm của Viện kiểm sát, quyết định hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn. Lúc này, dù bị cáo có xin rút kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không chấp thuận. Việc hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra lại về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 358 BLTTHS.

    Hai là, Hội đồng xét xử  phúc thẩm không chấp thuận quan điểm của Viện kiểm sát và quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm khi bị cáo xin rút kháng cáo theo quy định tại Khoản 1, Điều 348 BLTTHS. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 348 BLTTHS.  Để giải quyết vấn đề này theo chúng tôi cần hiểu rõ để phân biệt khái niệm kháng cáo và kháng nghị. Kháng cáo là một trong những cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, nhưng trước hết kháng cáo là quyền tố tụng quan trọng, được pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện để những chủ thể có quyền kháng cáo được thể hiện sự không đồng tình của mình đối với phán quyết của tòa án trong bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

    Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời, sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của tòa án. Việc kháng nghị dẫn đến có thể làm bất lợi hoặc không bất lợi cho bị cáo.

    Như vậy, xét về mặt bản chất kháng cáo và kháng nghị là hai hoạt động đối lập nhau trong một số trường hợp nhất
định, bị cáo kháng cáo nhằm bảo vệ cho chính mình còn kháng nghị của Viện kiểm sát bên cạnh tránh các sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, hoạt động kháng nghị nếu đề nghị tăng hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng… làm bất lợi cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm khi bị cáo rút kháng cáo nghĩa là bị cáo từ bỏ quyền của mình mà đối tượng của phiên tòa phúc thẩm là kháng cáo của bị cáo không còn thì về nguyên tắc phải đình chỉ, còn việc có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội nặng hơn thuộc trường hợp kháng nghị của Viện kiểm sát nhưng Viện kiểm sát không thực hiện quyền này nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không ra quyết định hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn.

    Như vậy, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút kháng cáo tòa án cấp phúc thẩm có hủy bảnán hình sự sơ thẩm khi Viện kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn hay không? trong thực tiễn đối với trường hợp này chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.

    2. Kiến nghị hoàn thiện 

    Từ những vướng mắc, bất cập trên chúng tôi cho rằng cần thiết có văn bản hướng dẫn về các trường hợp hủy bản án hình sự theo quy định tại Điều 358 BLTTHS để trong thực tiễn áp dụng được thống nhất cụ thể:

    Thứ nhất: Kiến nghị hoàn thiện quy định đối với căn cứ “Có căn cứ cho rằng cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm” thuộc trường hợp hủy án để điều tra lại quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 358 BLTTHS theo chúng tôi quy định này trong văn bản hướng dẫn thay thế thông tư liên tịch số 01/TTLT/TANDTCVKSNDTC, ngày 08/12/1988 của tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS cần hướng dẫn như sau: “Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ sửa án sơ thẩm, kết án bị cáo về tội như Viện kiểm sát truy tố theo quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 357 BLTTHS trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại về tội nặng hơn và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố và Tòa án sơ thẩm vẫn xét xử bị cáo về tội danh như Viện kiểm sát truy tố.

    Sau khi xét xử sơ thẩm bị hại kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn và tăng hình phạt đối với bị cáo. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa đủ căn cứ để xét xử về tội danh nặng hơn; quyền bào chữa không bảo đảm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 358 BLTTHS.

    Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại về tội nặng hơn và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh như Viện kiểm sát truy tố. Sau khi xét xử sơ thẩm bị hại kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn và tăng hình phạt đối với bị cáo. Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 358 BLTTHS để khởi tố, điều tra về tội nặng hơn tội đã tuyên trong bản án sơ thẩm”.

    Thứ hai: Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ hủy bản án hình sự để xét xử lại “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 358 BLTTHS.

    Vấn đề này cần hướng dẫn như sau: “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật, khách quan của vụ án, chính xác hoặc xâm phạm đến quyền, nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố tụng. 

    Các dạng vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử: 

    Một là, vi phạm về thành phần hội đồng xét xử;

    Hai là, xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng;

    Ba là, không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án; 

    Bốn là, vắng mặt thành phần tham gia tố tụng quan trọng nhưng không có lý do chính đáng;

    Năm là, không thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa khi thuộc trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định của BLTTHS;

    Sáu là, vi phạm về thủ tục tiến hành phiên tòa; 

    Bảy là, bỏ sót chưa giải quyết triệt để hết các yêu cầu của người tham gia tố tụng; 

    Tám là, việc nghị án không đúng”.

    Bên cạnh đó, một điều cần lưu ý, không phải tất cả các vi phạm pháp luật BLTTHS của tòa án cấp sơ thẩm đều là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại mà những vi phạm pháp luật đó phải đến mức nghiêm trọng, tức là làm choviệc giải quyết đó thiếu khách quan, toàn diện, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Còn những vi phạm pháp luật mà không làm ảnh hưởng nghiêm trọng thì không coi là căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án và chuyển hồ sơ cho tòa án cấp xét xử sơ thẩm xét xử lại.

    Thứ ba: Kiến nghị hoàn thiện quy định về căn cứ “Bản án sơ thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của BLTTHS” quy định tại Điểm đ, Khoản 2, Điều 358 BLTTHS về hủy bản án hình sự để xét xử lại, theo chúng tôi vấn đề này cần hướng dẫn như sau:

    “Những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng không thuộc trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án theo quy định tại Điều 357 của BLTTHS gồm: Kết án người không có hành vi phạm tội (làm oan người vô tội: Một người không thực hiện hành vi phạm tội nào nhưng lại bị tòa án cấp sơ thẩm kết án là làm oan người vô tội).

    Kết án người mà hành vi của họ không cấu thành tội phạm là trường hợp người bị kết án có thực hiện hành vi đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho xã hội, nhưng theo quy định của pháp luật, thì hành vi của họ không bị xử lý bằng biện pháp hình sự (hành vi không cấu thành tội phạm) như: Gây thiệt hại trong trường hợp sự kiện bất ngờ; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự; chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng;...

    Kết án người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán vội thỏa mãn với lời khai của người có hành vi phạm tội hoặc giấy tờ xác nhận không chính xác của chính quyền địa phương nên đã khởi tố, truy tố và kết án người chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

    Tòa án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm: Chỉ coi là Tòa án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm trong trường hợp Viện kiểm sát đã truy tố nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội. Ngoài trường hợp bỏ lọt người phạm tội thì trong một số trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm còn bỏ lọt hành vi phạm tội đối với một hoặc một số bị cáo mà Viện kiểm sát đã truy tố.

    Kết án sai tội danh là việc định tội của Tòa án cấp sơ thẩm đối với hành vi của bị cáo không đúng với tội phạm mà BLHS quy định. Ví dụ: Hành vi phạm tội của bị cáo cấu thành tội giết người nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại kết án bị cáo về tội cố ý gây thương tích; bị cáo phạm tội lửa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại kết án bị cáo về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 

    Áp dụng điều khoản của BLHS không đúng: Sai lầm trong việc áp dụng điều khoản của BLHS không chỉ bao gồm việc xác định sai điều khoản của điều luật quy định đối với tội tương ứng mà con bao gồm cả việc áp dụng không đúng các quy định khác của BLHS có liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, các quy định này chủ yếu nằm ở phần chung BLHS.

    Thứ tư: Đối với trường hợp tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút kháng cáo nhưng Viện kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn, vấn đề này thực hiện như thế nào?

    Vấn đề này cần hướng dẫn như sau “Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trường hợp có kháng cáo mà tại giai đoạn xét xử phúc thẩm người kháng cáo rút yêu cầu kháng cáo nhưng Viện kiểm sát đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại về tội nặng hơn thì Hội đồng xét xử hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đình chỉ xét xử phúc thẩm và Tòa án phải nhận định rõ lý do đình chỉ là do người kháng cáo đã rút kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị về việc có căn cứ bị cáo phạm tội danh nặng hơn”.

    Trong trường hợp nêu trên cần kiến nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trần Văn Hùng
(Tòa án Quân sự khu vực Quân khu 4)



 

.