Phòng, chống tham nhũng góp phần chống tự diễn biến trong cán bộ, đảng viên

Thứ Bảy, 18/05/2013, 01:39 [GMT+7]

1- Vì sao phòng, chống tham nhũng là góp phần chống tự diễn biến trong cán bộ, đảng viên

Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo tài liệu hướng dẫn của Liên Hợp quốc, tham nhũng là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng. Tham nhũng bao hàm: hành vi của những người có chức, có quyền ăn cắp, tham ô và chiếm đoạt tài sản của nhà nước; lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử dụng quy chế chính thức một cách không chính thức; sự mâu thuẫn, không cân đối giữa các lợi ích chính đáng do thực hiện nghĩa vụ xã hội với những món tư lợi riêng. Còn theo Tổ chức minh bạch quốc tế cho rằng: tham nhũng là hành vi của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Bản chất của tham nhũng được mô tả bằng công thức:

Tham nhũng = độc quyền  +  bưng bít thông tin -  trách nhiệm giải trình.

Đối với bất cứ quốc gia nào, tham nhũng cũng đều có tác hại rất lớn vì làm méo mó sự lựa chọn chính sách theo hướng có lợi cho một cá nhân hay lợi ích của nhóm, làm thất thoát tài sản, nguồn lực của đất nước, làm suy giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp, nền kinh tế vì làm tăng chi phí trung gian, cản trở quá trình đầu tư, làm mất cơ hội kinh doanh v.v. Không chỉ vậy, tham nhũng sẽ dẫn đến làm mất lòng tin của nhân dân vào các nhà lãnh đạo đất nước, giảm sức hấp dẫn đầu tư đối với các nhà kinh doanh nước ngoài.

Đối với bất kỳ quốc gia nào, tham nhũng cũng đều có tác hại rất lớn
Đối với bất kỳ quốc gia nào, tham nhũng cũng đều có tác hại rất lớn

Giữa tham nhũng và tự diễn biến, hình thức có vẻ không liên quan đến nhau nhưng thực sự có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Diễn biến hòa bình là một nội dung quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đây là cuộc chiến thầm lặng nhằm tấn công toàn diện vào các mục tiêu bên trong cả về chính trị, kinh tế, tư tưởng, lý luận, văn hóa, nghệ thuật ...,  với mục đích khoét sâu những mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự thống nhất về tư tưởng và ý chí trong đảng, làm cho nội bộ Đảng suy yếu và tự diễn biến. Tự diễn biến hòa bình là sản phẩm và là biểu hiện cụ thể của “diễn biến hòa bình”. Đây là quá trình diễn ra trong chính nội bộ của chúng ta, tuy chịu sự tác động và chi phối của cả nhân tố khách quan và chủ quan, nhưng trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng. Quá trình vận động của tự diễn biến có thể theo hai khuynh hướng, hoặc tiến bộ, tích cực, hoặc theo xu hướng tiêu cực, tan rã và thoái trào. Tự diễn biến hòa bình trong trường hợp chúng ta nói  là khái niệm nói lên quá trình tự tan rã, biến chất của một thể chế chính trị - xã hội xét trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa - tinh thần, diễn ra một cách hòa bình, không bằng các biện pháp bạo lực.

Tham nhũng là nguy cơ lớn để dẫn tới tự diễn biến, bởi vì những cán bộ, đảng viên khi đã tham nhũng nghĩa là chính bản thân họ đã bị tha hóa phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách đảng viên, xa rời lý tưởng của Đảng là vì đất nước, vì dân tộc. Nhằm trục lợi cho cá nhân những người này thường cố tình làm sai chủ trương, chính sách nhà nước, vi phạm pháp luật để kiếm chác. Họ luôn dùng mọi thủ đoạn để được lòng cấp trên, được giữ những vị trí “ngon”, rồi tạo lập ê kíp trung thành để cùng nhau hợp thức hóa mọi mánh khóe rút ruột Nhà nước, hình thành một cơ chế, đường dây tham nhũng ngầm để chiếm đoạt lượng tài sản lớn của đất nước. Khi bị người khác phát hiện ra những sai trái của họ thì họ sẵn sàng bất chấp đạo lý, nguyên tắc trù dập không thương tiếc. Để kiếm chác các khoản lót tay, những kiểu người này cũng tạo ra mọi rào cản gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, họ vô cảm trước nỗi khổ của những người dân đói nghèo, không có công ăn việc làm, trước công việc chung của doanh nghiệp, đất nước bị trì trệ do những khó khăn họ gây ra...  

Chính lợi ích cá nhân, vì sự giàu có về vật chất không có giới hạn của bản thân, hành vi tham nhũng của họ đã làm cho người dân bức xúc, làm đảo lộn các chuẩn mực giá trị đạo đức xã hội, làm vẩn đục các mối quan hệ giữa người với người, làm người dân không còn tin tưởng vào chính quyền bởi “con sâu làm rầu nồi canh”. Tham nhũng trong điều kiện nền kinh tế thị trường còn giống như một bệnh dịch lây lan vì nó tác động thẳng vào tâm tư của những người đang làm ăn chính đáng nhưng lại sống hết sức khó khăn, trong khi những kẻ tham nhũng cũng ở cùng vị trí công việc thì lại có cuộc sống sung túc, đầy đủ, vì thế dễ làm người ta phải suy nghĩ và dễ hành động theo hướng tiêu cực. Cứ như vậy, tham nhũng sẽ trở nên phổ biến dù có khi chỉ là rất nhỏ, nhưng làm cho người dân không còn tin tưởng vào chế độ, dân càng xa Đảng, xa cách mạng.

Tham nhũng làm khoét sâu sự mất công bằng trong xã hội, càng khuyến khích lối sống không lành mạnh, bóp nghẹt dân chủ, văn minh, làm cho nội bộ nghi kỵ, mâu thuẫn với nhau và dễ đưa đến tình trạng lôi bè kéo phái, tranh giành quyền lợi vật chất cũng như quyền lực chính trị bởi quyền lực càng cao họ càng dễ tham nhũng hơn. Chính những điều này không chỉ làm hoen ố truyền thống vẻ vang của Đảng, mà còn thực sự tiếp sức cho các thế lực thù địch lợi dụng những điểm xấu, những tác hại gây ra của kẻ tham nhũng để quy kết, đánh đồng với những cán bộ, đảng viên tốt, trung kiên. Đồng thời, chúng nói xấu Đảng là sống trên dân, giàu có hơn dân, vô cảm trước nỗi đau của dân, rằng, Đảng thoái hóa, biến chất, không có đủ tư cách cũng như khả năng lãnh đạo, điều hành, quản lý đất nước, kinh tế thị trường với sự phát triển đa dạng, từ đó làm mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối lập Đảng với dân, thúc đẩy nhanh quá trình  tự diễn biến hòa bình, đòi đa nguyên, đa đảng, hay gây áp lực đấu tranh phải thay đổi chế độ chính trị khi có điều kiện.

Một kinh nghiệm đau xót đối với những người cộng sản là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu mà chủ nghĩa đế quốc không cần tốn một viên đạn. Một trong những nguyên nhân của sự sụp đổ đó có nguyên nhân tự diễn biến, tự chuyển hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên, buông lỏng vai trò lãnh đạo và xa rời những nguyên tắc của Đảng, thủ tiêu đấu tranh…, nên khi bị các thế lực thù địch tấn công bằng những thủ đoạn nham hiểm thì chủ nghĩa xã hội đã bị tan rã nhanh chóng.

Nhận rõ tính chất nguy hại của tự diễn biến, tự chuyển hóa, trong đó tham nhũng góp phần không nhỏ cho quá trình này, trong nhiều kỳ đại hội, hội nghị Trung ương Đảng ta đã cảnh báo tình trạng này, coi đây là 1 trong 4 nguy cơ, thách thức đe dọa sự ổn định, phát triển và tồn vong của chế độ, cần phải cương quyết chống. Như, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X và văn kiện Hội nghị Trung ương 3 (khóa X), Đảng xác định, diễn biến hòa bình và tham nhũng là những thách thức lớn nhất mà chúng ta phải vượt qua. Đảng khẳng định: phải kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ. Coi trọng nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Về chống tham nhũng, Đảng yêu cầu: "Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị phải có quyết tâm chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí". Thể hiện quyết tâm chính trị đó, Hội nghị Trung ương 3, khóa X đã ra Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đến Đại hội lần thứ XI Đảng nhận định "Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn  kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 173) vì vậy, “Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (Sđd, tr 253).

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam

2- Công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay ở Việt Nam

Có thể nói, vấn đề tham nhũng, lãng phí đã được Đảng ta nhắc đến và triển khai các biện pháp đấu tranh, ngăn ngừa từ lâu, song đến nay, nói một cách thẳng thắn và trung thực thì hiệu quả chưa được như mong muốn, chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của đông đảo nhân dân. Trong “Kết luận Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí” (Kết luận số 21-KL/TW) do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành ngày 22-5-2012 khẳng định: “Những chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) và các luật có liên quan là cơ bản đúng đắn, phù hợp”, nhưng vẫn nhấn mạnh: Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây dựng cơ bản; quản lý ngân sách; thu thuế, phí; quản lý, sử dụng vốn, tài sản trong doanh nghiệp nhà nước; tín dụng, ngân hàng; công tác cán bộ; quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp...

Tại Hội thảo "Vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng" do Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức tháng 8-2012, trong tham luận trình bày của đồng chí Lê Văn Lân,  khi đó là Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã ví tham nhũng giống như một tảng băng trên biển chỉ có thể phát hiện được qua phần băng nổi để xử lý. Và, thông qua những kết quả phát hiện, xử lý các vụ việc tham nhũng trong những năm qua, cũng như căn cứ vào việc đánh giá của các cơ quan chức năng, Đảng và Nhà nước, có thể thấy tình hình tham nhũng ở Việt Nam hiện đang bị coi là nghiêm trọng.

Theo đánh giá của Tổ chức minh bạch quốc tế (TI) Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng. Năm 2011 tuy đã có những tiến bộ nhất định, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số những nước có điểm thấp và đứng ở cuối bảng xếp hạng. Cũng theo TI, ở châu Á, tình hình tham nhũng ở Việt Nam nghiêm trọng hơn so với Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brunei, Malaysia, Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia... nhưng ít nghiêm trọng hơn Mông Cổ, Philippines, Lào, Nepal, Campuchia, Myanmar.

Điều đáng lo ngại là những biểu hiện của tham nhũng ở nước ta diễn ra rất đa dạng, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, lại mang đặc điểm rất phổ biến. Chẳng hạn, trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tham nhũng chủ yếu diễn ra trong việc quy hoạch; chuyển đổi mục đích sử dụng đất; thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị; giao đất, cho thuê đất; định giá đất khi thu hồi, đền bù; cấp phép khai thác tài nguyên, khoáng sản… Một số người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giao đất không đúng thẩm quyền; lập hồ sơ khống hoặc khai tăng diện tích đất khi đền bù.

Còn trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng thì một bộ phận cán bộ ngân hàng, nhất là trong các ngân hàng thương mại tiếp tay, móc nối với người bên ngoài thông qua các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, đầu tư tài chính, ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư… để chiếm đoạt tài sản, gây thất thoát lớn.

Trong đầu tư xây dựng cơ bản vấn đề tham nhũng còn nghiêm trọng hơn bởi phần lớn các công trình xây dựng đều xảy ra thất thoát tài sản, chủ yếu do tham ô và cố ý làm trái. Sai phạm xảy ra ở hầu hết các khâu, từ việc lập dự án, thiết kế, dự toán, phê duyệt kế hoạch cấp vốn, đến đấu thầu, tư vấn, giám sát, thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình. Thủ đoạn chủ yếu trong lĩnh vực này là không chấp hành đúng trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản; gian lận, thiếu minh bạch trong đấu thầu; khai khống khối lượng và giá trị vật tư, thiết bị; sử dụng vật liệu kém chất lượng, sai quy cách; thi công sai quy trình để giảm chi phí... Trong khi đó, tại các doanh nghiệp, thủ đoạn tham nhũng chủ yếu là giấu bớt và định giá trị tài sản, đất đai thấp hơn giá trị thực khi cổ phần hóa hoặc bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp; lập các hợp đồng mua bán, vận chuyển hoặc hóa đơn khống để chiếm đoạt; nâng khống giá hoặc gửi giá khi mua bán tài sản công để trục lợi.

Thậm chí, ngay cả  trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, công lý như công an, tòa án, viện kiểm sát, tham nhũng cũng trở thành vấn đề “bình thường” qua các hành vi nhận hối lộ của kẻ phạm tội hay người nhà kẻ phạm tội để bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án v.v…

Tính phổ biến của tham nhũng thể hiện ở chỗ ngay cả những người không có cấp chức lãnh đạo, quản lý như nhân viên cảnh sát, bác sỹ, y tá, cán bộ tiếp dân v.v. cũng nhũng nhiễu để được hối lộ “vặt”, hay “tham nhũng nhỏ, lẻ” khiến người dân vô cùng bức xúc.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến kêu gọi mọi người không đưa phong bì cho bác sỹ
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến kêu gọi mọi người không đưa phong bì cho bác sỹ

Nguyên nhân tham nhũng đã được nhiều báo cáo, hội nghị tổng kết, chủ yếu do khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, dưới tác động của những mặt trái đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng  viên, nhất là số người có chức, có quyền không còn giữ vững được phẩm chất đạo đức, vì lợi ích cá nhân, hoa mắt trước những cám dỗ vật chất, lại thiếu sự tu dưỡng rèn luyện nên dù biết là sai, trái pháp luật nhưng vẫn cố tình tham nhũng miễn là thu lợi nhiều nhất cho bản thân và gia đình. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của nhà nước, phương thức quản lý còn lỏng lẻo, sơ hở, thiếu sự giám sát chặt chẽ, cơ chế chưa công khai, minh bạch đã tạo điều kiện tốt để tham nhũng phát triển. Ngoài ra, cơ chế xin cho cũng được  nhiều người coi là miếng đất dung dưỡng, làm nảy sinh tham nhũng.

Nguyên nhân của công tác phòng, chống tham nhũng còn kém hiệu quả trong những năm qua là tuy chúng ta đã có Luật Phòng, chống tham nhũng nhưng nhiều quy định của luật này chưa được thực hiện đầy đủ. Nhiều nơi còn lạm dụng quy định về bảo vệ bí mật nhà nước để không công khai minh bạch, hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp. Một số biện pháp phòng, chống tham nhũng mới chỉ mang tính hình thức nên hiệu quả rất thấp, chưa phát huy trách nhiệm của người đứng đầu. Nhiều cơ quan tổ chức đều coi tham nhũng chỉ xảy ra ở nơi nào đó chứ không có ở tổ chức của mình. Các báo cáo cuối năm của các tổ chức luôn đạt là tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Chỉ đến khi các vụ tham nhũng bị phát hiện, mà thông thường đều do bên ngoài, hay báo chí phát hiện thì sự việc mới bị phanh phui. Ngoài ra, việc xử lý các vụ việc phát hiện chưa nghiêm, chưa có tính răn đe cao, người tốt có công phát hiện thì chưa được bảo vệ, đề cao khiến mọi người đều e ngại, sợ bị liên lụy, trù dập…

Để phòng, chống tham nhũng góp phần vào phòng, chống tự diễn biến, Kết luận số 21-KL/TW, đưa ra 6 nhóm giải pháp cơ bản, với nhiều nội dung cụ thể và mới hơn so với Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), gồm :

Một là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế chính sách về công tác tổ chức, cán bộ để phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Năm là, tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Sáu là, đổi mới, nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan thường trực, tham mưu về công tác phòng, chống tham nhũng.

Những giải pháp đó nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả, cùng với có biện pháp thiết thực, cụ thể nhằm ngăn chặn triệt để những điều kiện dẫn tới tham nhũng, cũng như nguyên nhân chưa làm tốt công tác phòng, chống tham nhũng như đã nêu ở trên, thì chắc chắn sẽ đem đến cho nhân dân nhiều hy vọng mới về bộ máy các cấp chính quyền làm việc hiệu quả, thực sự vì dân vì nước, vì sự phát triển của dân tộc trong tương lai.

Đỗ Minh Hạnh

(Tạp chí Cộng sản)

;
.