Cách mạng tháng Tám và bài học về nắm bắt thời cơ

Thứ Tư, 02/09/2015, 05:20 [GMT+7]

    Cách mạng Tháng Tám là kết quả của ba thời kỳ vận động cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương: Cuộc vận động cách mạng dân chủ tư sản những năm 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh; cuộc vận động dân chủ sâu rộng những năm 1936-1939; cuộc vận động giải phóng dân tộc cuối 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi chỉ trong vòng hai tuần lễ chính là nhờ quá trình chuẩn bị chu đáo, tạo thế, tạo lực và khi thời cơ lớn xuất hiện, Đảng ta đã kịp thời biết nắm bắt, phát động toàn dân khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Hay nói một cách khác, “mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ - đó là một trong những ưu điểm nổi bật của Cách mạng Tháng Tám”(1).

    Lênin đã từng cảnh báo và nhắc nhở những người cộng sản rằng: Không bao giờ được đùa với khởi nghĩa! Khởi nghĩa mà Lênin đề cập ở đây không chỉ thuần túy là những cuộc khởi nghĩa cục bộ, khởi nghĩa từng phần, mà là tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Thời cơ của tổng khởi nghĩa giành chính quyền chỉ xuất hiện khi mà tình thế cách mạng đã chín muồi, với những biểu hiện: Thứ nhất, không những đội tiền phong mà cả đại bộ phận giai cấp cách mạng đã thấm nhuần sự cần thiết phải làm cách mạng và sẵn sàng dấn thân hy sinh vì cách mạng. Thứ hai, các giai cấp trung gian biểu thị thái độ chống chính quyền, ủng hộ cách mạng (hoặc chí ít là giữ thái độ trung lập, có thiện cảm với cách mạng) không có khả năng ủng hộ những kẻ thù của cách mạng. Thứ ba, những giai cấp thù địch với cách mạng lâm vào khủng hoảng, khó khăn, bị suy yếu và xâu xé lẫn nhau. Nhìn lại quá trình vận động của cách mạng Việt Nam vào mùa Thu năm 1945, có thể thấy thời cơ đã thực sự chín muồi và Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như Mặt trận Việt Minh đã biết chớp lấy thời cơ có một không hai đó để phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước giành thắng lợi. 

    Ngay từ tháng 02-1942, khi viết tập diễn ca Lịch sử nước ta, khi đề cập tới yếu tố thời cơ của cách mạng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dự đoán: Năm 1945, Việt Nam độc lập. Lời tiên đoán đó của Người được đưa ra dựa trên cơ sở phân tích một cách khách quan, khoa học và biện chứng khả năng phát triển của tình hình trong nước và thế giới; đặc biệt là xu thế phát triển của phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng mà nòng cốt là các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và sự chuyển hóa thế, lực giữa phe đồng minh với trục phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó tính tới khả năng quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương để đánh quân đội Nhật Bản. Thực tế, lịch sử diễn ra những năm sau đó hoàn toàn đúng như vậy.

    Quá trình xác định thời cơ phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước Tháng Tám năm 1945, Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đánh giá cao mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương với cuộc chiến tranh của các nước đồng minh chống phát xít; luôn coi trọng cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan, trong đó đặc biệt nhấn mạnh yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, trong Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Ban Thường vụ Trung ương đã khẳng định: “Dù sao ta không thể đem việc quân đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa” và dự kiến “nếu tình thế chuyển biến thuận lợi thì dù quân đồng minh chưa đổ bộ, cuộc Tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”(2). Đánh giá tình hình cách mạng Đông Dương lúc này, Đảng ta cho rằng, “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi; những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi”. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp với những hình thức đấu tranh phong phú và cao hơn giai đoạn trước. Cùng với đó là đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích. Có thể nói, với bản Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Cách mạng Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiền khởi nghĩa. Tại nhiều địa phương trong cả nước, các cuộc khởi nghĩa từng phần đã liên tiếp nổ ra. Ở các thành phố, thị xã, các hoạt động tuyên truyền, động viên quần chúng nhân dân tham gia và ủng hộ Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị khởi nghĩa được đẩy mạnh rầm rộ. Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ diễn ra trung tuần tháng 4-1945 nhận định: Lúc này chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc Tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị lịch sử này cũng đã quyết định nhiều vấn đề quân sự quan trọng như: Thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước thành Việt Nam giải phóng quân, phân chia các chiến khu, cử Ủy ban Quân sự cách mạng Bắc kỳ...

    Trong khi đó thì trên chiến trường châu Âu, phát xít Đức đã bại trận; tại châu Á, quân phát xít Nhật cũng đang bị đẩy lùi dần về thế phòng ngự chiến lược. Từ ngày 07-7 đến ngày 02-8-1945, tại Pốt-xđam đã diễn ra một cuộc họp quan trọng giữa người đứng đầu ba nước Liên Xô, Mỹ và Anh bàn về vấn đề nước Đức và phối hợp đẩy mạnh nỗ lực tiêu diệt nốt các đạo quân phiệt Nhật Bản. Hội nghị đã ra một tuyên bố chung đòi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quyết định mở cuộc tiến công cuối cùng vào các đạo quân của Nhật Bản cho tới khi Nhật Bản chấm dứt mọi việc kháng cự.

    Ngày 06-8, Mỹ ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hi-rô-si-ma (Nhật Bản). Hai ngày sau, Liên Xô tuyên bố hủy bỏ Hiệp định trung lập đã ký với Nhật Bản năm 1941 và chính thức tuyên chiến. Trước tình hình đó, đêm ngày 09-8, Hội đồng tối cao chỉ đạo chiến tranh của Nhật Bản đã nhóm họp nhằm tìm ra lối thoát. Giữa lúc 06 ủy viên của Hội đồng đang tranh cãi gay gắt xung quanh vấn đề nên hay không nên chấp nhận bản Tuyên bố Pốt-xđam, thì Hồng quân Liên Xô đã mở cuộc tổng tiến công trên một phòng tuyến dài 4.800 km, vượt qua Mãn Châu, áp sát đại bản doanh của Đạo quân Quan Đông (Nhật Bản). Cùng thời điểm đó, Mỹ cho ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống thành phố Na-ga-xa-ki. Mặc dù chỉ có 02 trong số 06 ủy viên của Hội đồng tối cao chỉ đạo chiến tranh tán thành “chấp nhận bản Tuyên bố Pốt-xđam”, nhưng trước tình thế “lưỡng đầu thụ địch”, Nhật hoàng Hirô-hi-tô đã chọn giải pháp dung hòa, chấp nhận bản Tuyên bố Pốt-xđam nhưng với điều kiện phải sửa lại một số điểm sau: Giữ nguyên vẹn ngôi Vua và thể chế Nhật Bản; Quân đội Nhật tự giải giáp; những người Nhật bị coi là tội phạm chiến tranh phải do Tòa án Nhật Bản xét xử; nước Nhật không bị chiếm đóng.

    Đêm ngày 12-8, đài Cựu Kim Sơn phát đi bản tin thông báo tới các nước châu Á rằng Nhật Bản đã gửi thông điệp ngỏ ý chấp nhận bản Tuyên bố Pốt-xđam của các nước đồng minh. Mặc dù, đây chưa phải là một bản tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện”, mà chỉ mới là “một đề nghị ngừng bắn”. Song, với tầm nhìn chiến lược nhạy bén, trên cơ sở phân tích một cách khoa học về thời cơ, Lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Nửa đêm ngày 13-8-1945, từ Đại bản doanh trong ATK Việt Bắc, bản Quân lệnh số 1 đã được phát đi.

    Trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng Hirô-hi-tô thông qua làn sóng của Đài phát thanh quốc gia chính thức tuyên bố: “Chấp nhận bản Tuyên bố Pốt-xđam để tránh đổ máu kéo dài”. Tuy nhiên, điều đáng nói là tuyên bố đó đã không được truyền đạt kịp thời tới Tư lệnh các đạo quân Nhật Bản, trong đó có Tư lệnh đạo quân Phương Nam ở Đông Dương.

    Ngày 19-8, trong khi Hồng quân Liên Xô đánh tan Đạo quân Quan Đông và làm chủ Mãn Châu thì tại Hà Nội, cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Như một phản ứng dây chuyền, liên tiếp những ngày cuối Tháng Tám năm 1945, các cuộc khởi nghĩa giành chính quyền liên tiếp nổ ra và giành được thắng lợi ở các địa phương suốt từ Bắc chí Nam. Ngày 02-9- 1945, khi mà trên chiến hạm Mít-xu-ri đang bỏ neo trong vịnh Tokyo, Nhật Bản chính thức ký các văn kiện chấp nhận đầu hàng đồng minh vô điều kiện, thì tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

    Điểm qua một loạt sự kiện quan trọng như vậy để thấy rằng, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam diễn ra thành công trong bối cảnh Quân đội Nhật Bản chưa đầu hàng các lực lượng đồng minh chống phát xít và đạo quân Phương Nam vẫn còn đang sung sức. Điều này càng cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén và kịp thời của Ban Thường vụ Trung ương, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh.

    Thời cơ Tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, trong vòng hai tuần lễ, nhưng đó là “thời cơ vàng” mà Đảng Cộng sản đã chớp lấy lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước. Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm khi mà ở trong nước, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển lên đến đỉnh cao, quân đội Nhật Bản ở Đông Dương mất nhuệ khí, không còn chỗ dựa, nhiều đơn vị quân Nhật đã bị “trung lập hóa”; quân đội Anh, Pháp, Tưởng lại chưa kịp kéo vào. Với chính quyền mới giành được, nhân dân Việt Nam có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, đứng trên cương vị “chủ nhân ông” ngẩng cao đầu tiếp quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của các lực lượng đồng minh chống phát xít. Phải đến ngày 09-9, phái đoàn tiền trạm của Trung Hoa dân quốc do Tiêu Văn dẫn đầu mới đặt chân tới Hà Nội; tiếp theo đó là Lư Hán (14-9) và mãi tới ngày 28-9-1945, lễ đầu hàng của Quân đội Nhật Bản mới chính thức diễn ra ở Hà Nội.

    Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 cho thấy, sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy của hai lực lượng chính trị và quân sự, trong đó lực lượng chính trị của quần chúng là chính; nổ ra đúng lúc “tình hình đã hết sức khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, hậu bị quân đã sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang mang đến cực điểm”(3). Đảng Cộng sản lúc này chỉ có khoảng 5.000 đảng viên nhưng đã được tôi luyện rất vững vàng và nhạy bén; bên cạnh đó, có hàng triệu quần chúng nhân dân đang sục sôi khí thế cách mạng được tổ chức chặt chẽ và đoàn kết dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh sẵn sàng vùng lên đánh đổ ách thống trị của quân thù. Trong khi đó, lực lượng quân Nhật mặc dù đang sung sức, trang bị còn mạnh nhưng nhuệ khí đã giảm sút, đặc biệt là bộ máy công cụ bạo lực phản động mà chúng sử dụng để chống lại cách mạng gần như đã bị vô hiệu hóa. Đây chính là thời cơ ngàn năm có một để phát động một cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Lúc này, Lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng nằm trong rừng sâu ATK Việt Bắc, nhưng vừa tỉnh dậy sau cơn sốt, Người đã căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.

    Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 cho chúng ta nhiều bài học có giá trị, trong đó có bài học về nắm bắt thời cơ. Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, đặc biệt là trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), vấn đề Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa đã luôn được đặt ra. Trên thực tế đã từng xuất hiện một số thời cơ để có thể tiến hành Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa. Tuy nhiên, thời cơ đó đã thực sự chín muồi hay chưa? để có thể bảo đảm cho Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi lại là chuyện khác. Thời điểm cuối năm 1963 đầu năm 1964, khi mà sau cái chết của Diệm - Nhu, chính quyền Việt Nam cộng hòa lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng. Tuy nhiên, thời điểm này quân đội Sài Gòn vẫn còn đông và mạnh, lại được sự hậu thuẫn và chi viện tối đa của Mỹ; trong khi đó thì lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam còn mỏng, đặc biệt là còn thiếu “quả đấm chủ lực” để “đi trước một bước”. Chính vì vậy mà mặc dù lúc bấy giờ, Trung ương Cục miền Nam cũng đã xây dựng Kế hoạch Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa (Kế hoạch X) nhưng trên thực tế thì Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa đã không thể diễn ra do thời cơ lúc này chưa đủ chín muồi.

    Đến đầu năm 1968, thời cơ mới xuất hiện và vấn đề Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa lại được đặt ra cho cuộc tiến công và nổi dậy vào các đô thị trên toàn miền Nam. Đòn tiến công chiến dịch Mậu Thân năm 1968 đã giành thắng lợi to lớn cả về chính trị và quân sự, gây chấn động thế giới; làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Paris. Tuy nhiên, trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968 ta vẫn không thực hiện được Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa như kế hoạch đặt ra do thời điểm này địch còn hơn một triệu quân. Mặc dù quân địch có hoang mang, giao động trước đòn tiến công bất ngờ và táo bạo của Quân giải phóng nhưng trong hàng ngũ của Quân đội Việt Nam cộng hòa chưa có những cuộc binh biến lớn; quân Mỹ vẫn còn đủ mạnh để hỗ trợ hiệu quả cho quân đội Sài Gòn tiến hành các chiến dịch đàn áp phong trào cách mạng. Tại các đô thị miền Nam, cơ sở và phong trào cách mạng phát triển mạnh nhưng chưa đủ để tổng khởi nghĩa nổ ra đồng loạt, lật đổ chính quyền tay sai. Thực tế, chiến dịch Mậu Thân năm 1968 chỉ mới dừng lại ở một cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy”.

    Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, quân Mỹ buộc phải rút khỏi miền Nam. Tình thế và tương quan lực lượng trên chiến trường có sự thay đổi căn bản có lợi cho cách mạng. Chính vì vậy mà trong Kế hoạch chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, ta cũng đã đề ra chủ trương Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi cuối cùng để giảm thiểu đổ xương máu không cần thiết. Song, trong đòn tiến công chiến lược cuối cùng mùa Xuân năm 1975, Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa cũng không diễn ra như mong muốn, mà chỉ là một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Chỉ có điều, khác với chiến dịch Mậu Thân năm 1968, trong mùa Xuân năm 1975, thời cơ đã chín muồi hơn, song Tổng khởi nghĩa đã không kịp diễn ra vì tốc độ chiến thắng đến quá nhanh, vượt xa cả những tính toán trong kế hoạch ban đầu của ta.

    “Không được đùa với Tổng khởi nghĩa”. Rõ ràng là Tổng khởi nghĩa có quy luật của nó. Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 khác với tổng khởi nghĩa trong chiến tranh cách mạng. Tuy nhiên, mặc dù Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa đã không diễn ra trong thực tiễn chiến tranh cách mạng miền Nam (1954-1975), nhưng những bài học từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 - nhất là bài học về nắm bắt thời cơ - cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

(1) Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, H.1975, t.1, tr.370.
(2) Văn kiện Đảng (1940-1945), Nxb CTQG, H.2000, t.7, tr. 373.
(3) Trường Chinh, Sđd, tr.172.

Đại tá, PGS, TS. Trần Ngọc Long
(
Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)

;
.