Các biện pháp tư pháp, căn cứ quyết định hình phạt và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Thứ Bảy, 25/07/2020, 10:39 [GMT+7]
    Hỏi: Xin cho hỏi, pháp luật quy định như thế nào về các biện pháp tư pháp, các căn cứ quyết định hình phạt và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội?
 
    Trả lời: Lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định về hệ thống hình phạt và một chương độc lập về “Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội” để áp dụng đối với đối tượng là pháp nhân thương mại phạm tội. Về hình phạt, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hai loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
 
    Theo đó, tại Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định rõ về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội tại Điều 82 như sau:
 
    Tòa án có thể quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp sau đây đối với pháp nhân thương mại phạm tội: (a) Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật này; (b) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; (c) Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.
 
Kiểm tra hoạt động của pháp nhân thương mại. (Ảnh minh họa)
Kiểm tra hoạt động của pháp nhân thương mại. (Ảnh minh họa)
    Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm tội của mình gây ra.
 
    Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả của tội phạm: (a) Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; (b) Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; (c) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên
liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm; (d) Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; (đ) Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; (e) Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.
 
    Về căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội Điều 83 Bộ luật này quy định: Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại.
 
    Bộ luật cũng quy định rất rõ về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại (Điều 85) như sau: Chỉ các tình tiết sau đây mới là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: (a) Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội; (b) Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng; (c) Phạm tội 02 lần trở lên; (d) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; (đ) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội; (e) Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm. Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.
Thanh An
.